TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
HỒN THIỆN THỦ TỤC XÉT HỎI
TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP
SVTH : NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG
MSSV : 0955030014
Lớp : CLC34
GVHD : LÊ THỊ THÙY DƢƠNG
Giảng viên khoa Luật hình sự
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2003
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
HỆ CHÍNH QUY
KHĨA 34 (KHĨA HỌC 2009 - 2013)
HỒN THIỆN THỦ TỤC XÉT HỎI
TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP
Sinh viên thực hiện:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Giáo viên hƣớng dẫn:
NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG
0955030014
CLC34
LÊ THỊ THÙY DƢƠNG
Giảng viên khoa Luật hình sự
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này là kết quả của bốn năm học tập, nghiên cứu và rèn luyện của tác giả tại
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh cũng như q trình tiếp thu và tích lũy
những kiến thức lý luận và thực tiễn của tác giả trong thời gian qua. Tác giả cam đoan
đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả, dưới sự định hướng của giáo viên hướng
dẫn Lê Thị Thùy Dương và trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên quan. Tất cả các tài
liệu không phải do tác giả viết đều được trích dẫn từ nguồn được liệt kê trong danh
mục tài liệu tham khảo.
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Dung
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
KSV
Kiểm sát viên
NBC
Người bào chữa
TAND
Tòa án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
VKS
Viện kiểm sát
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA
HÌNH SỰ ........................................................................................................................ 6
1.1 Khái qt về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ...................................................6
1.1.1 Khái niệm về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ..................................................6
1.1.2 Đặc điểm của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ...................................................8
1.1.3 Vị trí, vai trò của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự ............................................10
1.2 Nguyên tắc xét hỏi .....................................................................................................12
1.2.1 Nguyên tắc xét hỏi công khai ...................................................................................12
1.2.2 Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói, liên tục .................................................14
1.3 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác tại phiên tòa .......10
1.3.1 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa ...............................10
1.3.2 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa .....................11
1.3.3 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục nghị án và tuyên án............................17
1.4 Lƣợc sử sự phát triển của thủ tục xét hỏi trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam trƣớc năm 2003 ......................................................................................................18
1.4.1 Pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi trong giai đoạn 1945-1988 ................18
1.4.2 Pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi trong giai đoạn 1988 - 2003 ..............20
1.5 Thủ tục xét hỏi trong các mơ hình tố tụng .............................................................22
1.5.1 Thủ tục xét hỏi trong mơ hình tố tụng thẩm vấn ......................................................22
1.5.2 Thủ tục xét hỏi trong mô hình tố tụng tranh tụng ....................................................23
1.5.3 Thủ tục xét hỏi trong mơ hình tố tụng pha trộn .......................................................24
CHƢƠNG II. THỦ TỤC XÉT HỎI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG..................................... 25
2.1 Chủ thể xét hỏi và thực tiễn áp dụng ......................................................................26
2.1.1 Sự tham gia, vai trò của Hội đồng xét xử trong thủ tục xét hỏi và thực tiễn áp
dụng ..................................................................................................................................26
2.1.2 Sự tham gia, vai trò của Kiểm sát viên trong thủ tục xét hỏi và thực tiễn áp dụng 36
2.1.3 Sự tham gia, vai trò của người bào chữa trong thủ tục xét hỏi và thực tiễn áp
dụng ..................................................................................................................................42
2.1.4 Sự tham gia, vai trò của người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong thủ tục xét
hỏi và thực tiễn áp dụng ...................................................................................................49
2.1.5 Sự tham gia, vai trò của người giám định trong thủ tục xét hỏi và thực tiễn áp
dụng ..................................................................................................................................46
2.2 Nội dung xét hỏi và thực tiễn áp dụng ....................................................................48
2.2.1 Nội dung xét hỏi đối với bị cáo và thực tiễn áp dụng ..............................................54
2.2.2 Nội dung xét hỏi đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ và
thực tiễn áp dụng ..............................................................................................................51
2.2.3 Nội dung xét hỏi đối với người làm chứng và thực tiễn áp dụng ............................52
2.2.4 Nội dung xét hỏi đối với người giám định và thực tiễn áp dụng .............................53
2.3 Trình tự xét hỏi và thực tiễn áp dụng .....................................................................54
2.3.1 Đọc bản cáo trạng tại phiên tòa và thực tiễn áp dụng ............................................54
2.3.2 Xét hỏi tại phiên tòa và thực tiễn áp dụng ...............................................................56
2.3.3 Công bố lời khai và thực tiễn áp dụng.....................................................................59
2.3.4 Xem xét vật chứng và thực tiễn áp dụng ..................................................................61
2.4. Một số vấn đề khác liên quan đến thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ............69
CHƢƠNG III. GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TỊA HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƢ PHÁP................... 68
3.1 Cải cách tƣ pháp và vấn đề hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên toà ...................68
3.1.1 Cải cách tư pháp và nhu cầu hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa ....................68
3.1.2 Điều kiện hồn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa ...................................................72
3.2 Các giải pháp nhằm hồn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự .................73
3.2.1 Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi tại
phiên tịa ...........................................................................................................................74
3.2.2 Các giải pháp khác nhằm hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa .........................81
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đất nước thực hiện quá trình mở cửa, song song với cải cách kinh tế, lĩnh
vực chính trị cũng được tập trung hoàn thiện để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, phát
huy dân chủ. Trong lĩnh vực chính trị, hoạt động tư pháp đã có nhiều nỗ lực đổi mới từ
việc củng cố cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho đến hồn thiện,
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tư pháp và cải thiện dần điều kiện vật chất phục
vụ cho hoạt động tư pháp như trụ sở tòa án và các phương tiện khác. Tuy nhiên, kết
quả của những cố gắng đó chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế, chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội và quá trình hội nhập. Thêm nữa, hợp tác và tương trợ tư pháp
vừa là thách thức, vừa là động lực thúc đẩy việc cải cách tư pháp nhằm khẳng định vị
thế của Việt Nam cũng như tạo cơ chế pháp lý bảo vệ tốt hơn các quyền cho cơng dân
mình ở phạm vi quốc tế. Nghị quyết 08 – NQ/TW, ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ
chính trị TW Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
gian tới” đã đánh dấu mốc quan trọng cho tiến trình cải cách tư pháp của nước ta. Cải
cách tư pháp trở thành một địi hỏi khơng thể thiếu để xây dựng nhà nước pháp quyền.
Cải cách tư pháp cần thiết bắt đầu từ cải cách Tòa án và các thủ tục tố tụng. Tiên
phong trong quá trình cải cách thủ tục tố tụng là việc ban hành BLTTHS năm 2003.
Tuy nhiên, BLTTHS 2003 được sửa đổi tồn diện nhưng khơng cơ bản và không thể
quán triệt được yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/ 2002
của Bộ chính trị. Trong khi, hầu hết các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hình sự đều chịu sự điều chỉnh của BLTTHS
mà bản thân BLTTHS thiếu vắng những quy định cần thiết thì khơng thể địi hỏi phiên
tịa đạt hiệu quả. Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của bộ chính trị
“Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” được ban hành nhằm định hướng và
thúc đẩy hoạt động cải cách tư pháp cho phù hợp với q trình đổi mới cơng tác lập
pháp và chương trình cải cách hành chính. Trước tình hình cơng tác tư pháp ở nước ta
1
còn nhiều hạn chế và phải đối mặt với nhiều thách thức, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Sau khi Nghị quyết
được ban hành, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS 2003 cho phù hợp với
tinh thần cải cách tư pháp đã thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà lập pháp, những
người nghiên cứu, đặc biệt là tập trung hoàn thiện các quy định và thủ tục theo hướng
nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa để đảm bảo tính dân chủ.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa (hay còn gọi là thẩm vấn) là một trong những thủ tục
tố tụng rất quan trọng của phiên tịa vì đây là cuộc điều tra cơng khai tại phiên tịa - cơ
sở chính yếu để ra quyết định đúng đắn giải quyết vụ án. Hiệu quả của việc xét hỏi ảnh
hưởng rất lớn đến số phận của bị cáo và có thể cả những người liên quan trong vụ án.
Tuy nhiên, pháp luật thực định về thủ tục xét hỏi cũng như thực tiễn áp dụng bộc lộ
nhiều bất cập, chưa đảm bảo được tính tranh tụng và dân chủ, việc hồn thiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa hình sự là những trăn trở của các nhà nghiên cứu lập pháp cũng
như các chủ thể áp dụng pháp luật trong quá trình cải cách tư pháp. Với tầm quan trọng
của vấn đề cũng như đã qua một thời gian dài kể từ khi đặt ra yêu cầu tiến hành cải
cách tư pháp nên đây khơng cịn là vấn đề mới. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề cịn nhiều
tranh luận vì những gì đã làm và đạt được cho thấy hiệu quả còn quá xa so với mục tiêu
cải cách tư pháp đặt ra. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện thủ tục hỏi tại phiên
tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” để nghiên cứu là nhằm làm rõ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xét hỏi trong phiên tịa hình sự và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải
cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự khơng phải là mới
và đã được đề cập khá nhiều trong các cơng trình nghiên cứu trước đây. Nhiều tác giả
2
đã nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như luận văn, khóa luận: Đỗ Văn Thinh, “Thủ
tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”, Luận văn Thạc sĩ, 2006; Lê Đức Thọ,“Xét
hỏi, tranh luận và nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”, Khóa luận
tốt nghiệp, 2006; Nguyễn Thị Hồng Duyên, “Xét hỏi và việc nâng cao tính tranh tụng
của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Khóa luận tốt nghiệp, 2008; Cao Thị Mi
Sa, “Xét hỏi và nâng cao tính tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Khóa
luận tốt nghiệp, 2009; Chu Thị Hảo, “Hồn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp”, Khóa luận tốt nghiệp, 2012, …
Ngồi ra, vấn đề này cịn được đề cập trong các bài viết trên tạp chí như: Lê Thị
Thúy Nga, Về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, Tạp chí luật học số
07/2008; Đinh Văn Quế, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xét hỏi của Kiểm
sát viên tại phiên tịa hình sự; Đinh Văn Quế, Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự theo BLTTHS 2003, Tạp chí Tịa án nhân dân số 08/2004; Đỗ Văn
Thinh, Vai trò của Hội đồng xét xử và Viện kiểm sát trong thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm, Tạp chí Tịa án nhân dân số 18, 2007, …
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ một số vấn đề lý luận, những bất cập về quy định
pháp lý cũng như thực tiễn liên quan đến thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Kết hợp
với đó là đưa ra những quan điểm cá nhân và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu những quy định của BLTTHS Việt Nam năm
2003 về thủ tục xét hỏi và thực trạng hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong các yêu cầu
cải cách tư pháp của Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị; những quy định của BLTTHS 2003 và thực
tiễn áp dụng thủ tục hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm; tìm hiểu một số tài
liệu liên quan về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự khác.
3
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, tác giả thực
hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình
sự dựa trên quy định BLTTHS 2003, các tài liệu về thủ tục xét hỏi như các văn bản
pháp lý liên quan, các tài liệu tham khảo như các bài nghiên cứu khoa học, luận văn,
khóa luận và những bài viết trên các tạp chí.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định của BLTTHS 2003 về thủ tục xét hỏi tại
PTHS; đồng thời, tìm hiểu thực tiễn áp dụng, thơng qua đó phát hiện những bất cập về
kỹ thuật lập pháp cũng như những sai phạm của các chủ thể khi áp dụng quy định pháp
lý về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự, các yếu tố khác làm hạn chế hiệu quả hoạt
động xét hỏi.
Thứ ba, xác định yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 và đánh giá tác động của tinh
thần cải cách tư pháp đến nhu cầu hồn thiện thủ tục hỏi tại phiên tịa hình sự. Từ
những nghiên cứu, phân tích, đánh giá đó sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xét hỏi và những cơ chế đảm bảo nâng cao
chất lượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
Phương pháp nghiên cứu: Để hồn thành mục tiêu đã đề ra, tác giả kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu, trong đó có sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về chiến lược
cải cách tư pháp trong thời gian tới. Đồng thời, tiến hành dẫn chiếu, phân tích, so sánh
và đưa ra những đánh giá của cá nhân về vấn đề trên cơ sở tham khảo các tài liệu liên
quan.
4
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Xét xử là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án. Xét hỏi lại là thủ tục
quan trọng nhất trong phiên tịa xét xử vụ án, là bước đánh giá tồn diện các chứng cứ
một cách công khai làm cơ sở để đi đến kết luận quyết định số phận bị cáo. Thêm nữa,
tiến trình cải cách tư pháp đặt ra yêu cầu đẩy nhanh việc hoàn thiện các thủ tục tố tụng.
Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về thủ tục xét hỏi tại
phiên tịa hình sự về mặt lý luận; phân tích những bất cập trong quy định pháp luật
cũng như thực tiễn áp dụng thủ tục xét hỏi tại phiên tịa cần phải sửa đổi, từ đó đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả xét hỏi tại phiên tòa.
Đồng thời, tác giả cũng mong muốn bài nghiên cứu có thể góp thêm nguồn tài
liệu tham khảo liên quan đến vấn đề hoàn thiện thủ tục hỏi tại phiên tòa theo tinh thần
cải cách tư pháp.
6. Bố cục khóa luận:
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận được bố cục thành 3 chương, cụ thể như
sau:
Chương I. Nhận thức chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Chương II. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo quy định của BLTTHS năm
2003 và thực tiễn áp dụng
Chương III. Giải pháp hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên toà theo tinh thần cải
cách tư pháp
5
CHƢƠNG I
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
1.1 Khái qt về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
1.1.1 Khái niệm về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Kết quả của một vụ án hình sự phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong suốt quá trình
giải quyết vụ án nhưng hoạt động tại phiên tòa giữ vai trò trung tâm. Bởi vì, tất cả các
chứng cứ thu thập trước đó đều phải được đánh giá tại phiên tòa, phục vụ cho việc ra
bản án hoặc quyết định cuối cùng. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa (hay còn gọi là thẩm
vấn) được quy định từ Điều 206 - Điều 216 BLTTHS, là thủ tục quan trọng của phiên
tòa khi mọi vấn đề của vụ án được đưa ra xem xét cơng khai. Thơng qua đó, HĐXX sẽ
xác định được sự thật khách quan của vụ án và hơn hết là quyết định số phận của cả
một con người. Với tầm quan trọng đó, việc tìm hiểu, quy định và có một cái nhìn đầy
đủ về xét hỏi tại phiên tịa hình sự là rất cần thiết. Từ khi có Nghị quyết 08 - NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới”, việc nghiên cứu thủ tục xét hỏi tại phiên tòa càng thu hút nhiều sự
quan tâm hơn. Để đạt hiệu quả của việc nghiên cứu này thì tiếp cận, tìm hiểu khái niệm
thủ tục xét hỏi là bước đầu tiên tạo dựng một nền tảng lý luận vững chắc. Do vậy, yêu
cầu nghiên cứu khái niệm thủ tục xét hỏi được đặt ra.
Xét dưới góc độ ngơn ngữ học, “xét” là tìm hiểu, cân nhắc để nhận biết, đánh
giá, kết luận về cái gì đó [24-tr.1058].
Cịn “hỏi” là nói ra điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu được trả
lời [24-tr.400].
“Thủ tục” là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành
một cơng việc có tính chất hình thức [24-tr.883].
Từ đó có thể hiểu, thủ tục xét hỏi là cách thức, trình tự để thực hiện việc tìm
hiểu, kiểm tra một vấn đề thơng qua việc hỏi và trả lời giữa người hỏi và người được
hỏi.
6
Xét dưới góc độ pháp lý, BLTTHS 2003 khơng đưa ra định nghĩa thế nào là xét
hỏi hay thủ tục xét hỏi mà chỉ quy định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và những
hoạt động của các chủ thể liên quan. Qua nghiên cứu, các tác giả cũng đã đưa ra một số
khái niệm về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Giáo trình luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa “thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định trong BLTTHS nhằm xem xét công khai những
chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ
án”. Định nghĩa này mới chỉ đề cập được ở khía cạnh vai trị mà chưa thể hiện được
các đặc điểm quan trọng của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa như chủ thể, hoạt động.
Một định nghĩa khác, “xét hỏi” là thủ tục chính của phiên tịa sơ thẩm, trong đó
Tịa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra chứng cứ của bên buộc tội thu thập
trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp
nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án [31]. So với định
nghĩa trên thì ở quan điểm này tác giả tiếp cận được ở góc độ chủ thể nhưng vẫn chưa
là khái niệm đầy đủ khi chỉ nêu hoạt động kiểm tra chứng cứ, là một trong nhiều hoạt
động của thủ tục này; mặt khác, xét hỏi cũng là một thủ tục trong phiên tịa phúc thẩm
chứ khơng chỉ tồn tại ở phiên tịa sơ thẩm.
“Xét hỏi tại phiên toà mà nhiều người quen gọi là “thẩm vấn”. Xét hỏi tại phiên
toà là một phần (một giai đoạn) của quá trình xét xử một vụ án hình sự, trong đó Hội
đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải
kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách công khai về những
tình tiết của vụ án” [32]. Ở quan điểm này, tác giả đã đưa ra một định nghĩa có phần
đầy đủ hơn về vị trí của thủ tục xét hỏi, đó “là một phần (một giai đoạn) của q trình
xét xử một vụ án hình sự”, chủ thể tham gia và hoạt động của các chủ thể. Tuy nhiên,
định nghĩa này vẫn chưa đánh giá được vai trò của thủ tục xét hỏi, thiếu đối tượng bị
xét hỏi cũng như chưa nêu bật được điểm đặc trưng của thủ tục này là “hỏi” trực tiếp.
Đồng thời, việc sử dụng thuật ngữ “một giai đoạn” của tác giả trong quan điểm này là
khơng phù hợp. Bởi vì, trong q trình giải quyết một vụ án hình sự chỉ bao gồm các
7
giai đoạn luật định là khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, cho nên thủ tục xét hỏi chỉ là
một trong những hoạt động của giai đoạn xét xử.
Các khái niệm đã đề cập ở trên có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều nêu lên
được một hoặc một vài đặc điểm của thủ tục xét hỏi. Tuy nhiên, thật sự chưa có khái
niệm nào thể hiện được toàn diện các đặc điểm cơ bản của thủ tục xét hỏi. Qua nghiên
cứu, theo tác giả có thể tham khảo định nghĩa sau:
“Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm trong quá trình xét xử vụ án hình sự và
cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét
xử, kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác theo quy định của pháp luật
thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng;
xem xét chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án
nhằm kiểm tra cơng khai tất cả tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa”.
1.1.2 Đặc điểm của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Về chủ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 207 BLTTHS 2003, thủ tục xét hỏi
tại phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, KSV, NBC, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, người giám định thực hiện. Ngồi ra, những người tham gia
phiên tịa khác cũng có quyền u cầu chủ tọa phiên tịa hỏi những vấn đề cần làm sáng
tỏ. Như vậy, có thể chia chủ thể xét hỏi thành hai nhóm là người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng. Trong đó, người tiến hành tố tụng bao gồm Chủ tọa phiên tòa,
Hội thẩm và KSV; Chủ tọa phiên tòa là chủ thể xét hỏi chính. Chủ tọa phiên tịa và Hội
thẩm tiến hành xét hỏi tất cả các vấn đề liên quan để xác định sự thật vụ án. KSV tham
gia xét hỏi để bảo vệ các quan điểm trong cáo trạng, bao gồm việc hỏi cả tình tiết buộc
tội và gỡ tội. NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định là chủ thể
tham gia phiên tòa với tư cách người tham gia tố tụng và được quyền xét hỏi. NBC,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự xét hỏi những nội dung của vụ án liên quan đến
quyền lợi thân chủ mà mình nhận bảo vệ; người giám định hỏi về những tình tiết liên
quan đến vấn đề được yêu cầu giám định. Xuất phát từ u cầu về tính cơng bằng giữa
hai chức năng buộc tội và gỡ tội mà pháp luật tố tụng hình sự quy định sự tham gia của
hai nhóm chủ thể nêu trên.
8
Về phương thức tiến hành, thủ tục xét hỏi tại phiên tịa được tiến hành trực tiếp,
bằng lời nói, liên tục.
Thủ tục xét hỏi được tiến hành tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thông
qua việc đặt câu hỏi và trả lời trực tiếp giữa người có quyền hỏi và người bị hỏi. “Hội
đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải
trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị thiệt hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người
giám định, xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu,
xem xét tại chỗ... áp dụng các biện pháp được Bộ luật tố tụng hình sự quy định” [32].
Như vậy, ngồi việc vấn đáp trực tiếp thì các chủ thể cịn trực tiếp xem xét chứng cứ và
đến tại chỗ để xem xét hiện trường vụ án, nếu cần thiết. Xét hỏi trực tiếp dưới sự chứng
kiến của tất cả những người có mặt tại phiên tòa nhằm đảm bảo cơ chế giám sát của
nhân dân và tăng tính khách quan của hoạt động xét hỏi. Đây có thể xem là cuộc “đối
mặt” duy nhất của tất cả các chủ thể có liên quan của vụ án, hướng đến cùng giải quyết
một vấn đề.
Phiên tịa diễn ra cơng khai và trực tiếp nên u cầu các chủ thể phải sử dụng lời
nói làm phương tiện giao tiếp. Các chủ thể xét hỏi đặt câu hỏi và nói trực tiếp với
người bị hỏi. Người bị hỏi cũng phải dùng lời nói để trả lời, trừ khi họ thực hiện quyền
im lặng. Hoặc ngoại lệ, trường hợp người bị hỏi mắc phải khiếm khuyết về mặt thể
chất khơng thể nói được thì được quyền sử dụng ngơn ngữ hình thể và cần có người
phiên dịch. Vẫn có những trường hợp người được triệu tập để hỏi vắng mặt có lý do
chính đáng và trình bày lời khai bằng văn bản, hoặc trường hợp Tịa án cơng bố lời
khai trong giai đoạn điều tra, các đối tượng bị hỏi khơng trực tiếp dùng lời nói nhưng
tại phiên tòa những lời khai này vẫn được các chủ thể có thẩm quyền cơng bố bằng lời
nói; hơn nữa, tỉ lệ này chiếm khơng nhiều. Chỉ bằng lời nói, mọi ý kiến, suy nghĩ, đánh
giá vấn đề mới được thể hiện rõ ràng, khách quan nhất. Sử dụng lời nói cũng là cách
tiết kiệm thời gian xét xử nhất vì có thể truyền đạt dễ dàng và nhanh chóng. Giả sử
dùng toàn văn bản hoặc một phương thức nào khác lời nói để tiến hành xét hỏi thì ý
nghĩa của việc mở phiên tịa cơng khai sẽ khơng cịn nữa.
9
Thủ tục xét hỏi phải được tiến hành liên tục từ khi KSV bắt đầu đọc bản cáo trạng
đến khi HĐXX tuyên bố chấm dứt phần xét hỏi. Để đảm bảo cho yêu cầu này, luật quy
định cụ thể các hoạt động cũng như thứ tự tham gia của các chủ thể. Tính chất liên tục
của thủ tục xét hỏi nhằm đảm bảo tính lơ-gíc, khách quan trong việc trình bày, tiếp
nhận vấn đề. Bởi vì khơng phải tất cả các chủ thể có mặt tại phiên tịa đều có khả năng
và đủ trình độ để liên kết vấn đề trong trường hợp có sự ngắt qng trong q trình xét
hỏi, cho nên việc đứt đoạn khi đang xét hỏi rõ ràng sẽ dẫn đến tâm lý hoang mang cho
chủ thể bị hỏi, đặc biệt ở vị trí của bị cáo. Những suy nghĩ về sự thiếu khách quan,
không công bằng trong xét xử là điều khơng tránh khỏi. Vì vậy, cần hạn chế tối đa việc
này để đảm bảo việc xét xử nói chung và cụ thể là việc xét hỏi đạt hiệu quả.
1.1.3 Vị trí, vai trị của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Thứ nhất, thủ tục xét hỏi là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước trong
hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm. Tại phiên tòa, Cơ quan tư pháp đại diện
quyền lực Nhà nước thực hiện hai chức năng là buộc tội và xét xử. Để hoàn thành chức
năng của mình, HĐXX và KSV cùng thực hiện chứng minh tội phạm. Việc chứng
minh tội phạm được thực hiện qua nhiều hoạt động, trong đó thủ tục xét hỏi là thủ tục
trung tâm của q trình chứng minh. Vị trí, vai trị của thủ tục này được nhìn nhận,
đánh giá dưới hai góc độ khác nhau:
Nhìn từ góc độ của hoạt động chứng minh, thủ tục xét hỏi cung cấp những thông
tin cần thiết về vụ án. Những thông tin này có thể là căn cứ để xác minh chứng cứ,
cũng có thể là chứng cứ trực tiếp cho việc chứng minh. Kết quả của việc xét hỏi là cơ
sở để các chủ thể tranh tụng xây dựng luận cứ trong việc tranh luận nhằm xác định sự
thật vụ án; đưa ra kết luận thuyết phục qua phân tích, so sánh, đánh giá, kết luận. Theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc
về ba chủ thể là Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án. Tại phiên tòa, nghĩa vụ này là của
VKS và Tòa án nhưng xét về mặt khoa học, chứng minh tội phạm chỉ nên là chức năng
của VKS.
Nhìn từ góc độ chức năng xét xử thì thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự là việc
Tịa án phải làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ án để đưa ra kết luận cuối cùng.
10
Do đó, Tịa án phải xác định được đối tượng chứng minh: tình tiết, sự kiện cần làm
sáng tỏ thơng qua chứng cứ có tồn tại hay khơng tồn tại và phạm vi chứng minh như
lượng chứng cứ, phương tiện cần thu thập để làm rõ đối tượng chứng minh. Nói cách
khác là Tịa án kiểm tra tính chân thực của những tình tiết được nêu trong bản cáo trạng
và lời bào chữa (question of facts). Nội dung chủ yếu của thủ tục hỏi là kiểm tra chứng
cứ về tính khách quan, liên quan, hợp pháp. Bằng cách đó, thủ tục xét hỏi xác định
được đối tượng chứng minh và phạm vi chứng minh. Xét về mặt lý luận lẫn thực tiễn,
đây là hai yếu tố đảm bảo việc xét xử khách quan và tồn diện.
Như vậy, ở mỗi góc độ, thủ tục xét hỏi được hình dung khác nhau nhưng có
chung mục đích là làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở giải quyết vụ án
chính xác, hợp lý.
Thứ hai, thủ tục xét hỏi là một phần độc lập, là hoạt động trung tâm trong quá
trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự thật vụ
án. Hoạt động xét hỏi khơng chỉ có tại phiên tịa nhưng xét hỏi tại phiên tịa chỉ có
trong thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm và ở mỗi phiên tịa, hoạt động xét hỏi có vai trị
khác nhau.
Tại phiên tòa sơ thẩm, thủ tục xét hỏi đã tập trung tồn diện các hoạt động để
kiểm tra cơng khai tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án như chứng cứ đã thu thập
được và cả chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, kết luận điều tra, bản cáo trạng, …
để đưa ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Qua đó khẳng định trực tiếp bị cáo phạm
tội hay không phạm tội. Mặc dù việc xét hỏi dựa trên kết quả điều tra nhưng kết quả
điều tra phải được thẩm định tại giai đoạn này mới được thừa nhận chính thức là chứng
cứ của vụ án hay khơng. Kết quả của q trình xét hỏi là cơ sở để thực hiện các thủ tục
tố tụng tranh luận, nghị án và tuyên án sau đó. Vai trò của thủ tục này được khẳng định
khi BLTTHS 2003 dành riêng chương XX (Điều 206-Điều 216) để quy định về thủ tục
xét hỏi tại phiên tòa dù chưa thật sự đầy đủ và hợp lý.
Phiên tòa phúc thẩm tập trung vào tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ
thẩm nên nội dung xét hỏi chủ yếu làm sáng tỏ phần bản án bị kháng cáo, kháng nghị.
11
Thêm nữa, quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục hỏi tại phiên tòa
phúc thẩm còn rất sơ sài, chỉ duy nhất trong một điều luật (Điều 247): “Phiên tòa phúc
thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên
của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ
thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị”. Thủ tục xét hỏi chưa được đánh giá
đúng tầm trong cấp xét xử này.
1.2 Nguyên tắc xét hỏi
Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, mang tính chất định hướng cho
toàn bộ các hoạt động liên quan. Việc định hình các ngun tắc giúp đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ, hiệu quả khi giải quyết một vấn đề bao gồm nhiều khâu, do nhiều
chủ thể độc lập thực hiện. Với sự đa dạng về chủ thể bao gồm Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; sự phức tạp về thủ tục, hoạt động
xét xử đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc nhất định được ghi nhận tại chương II
(từ Điều 3 đến Điều 32) BLTTHS 2003. Thủ tục xét hỏi là một hoạt động trong quá
trình xét xử nên phải tuân thủ những nguyên tắc chung của hoạt động xét xử. Đồng
thời, thủ tục xét hỏi còn phải đảm bảo hai nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc xét hỏi
công khai và nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói, liên tục để đảm bảo hiệu quả
hoạt động.
1.2.1 Nguyên tắc xét hỏi công khai
Nguyên tắc xét hỏi công khai xuất phát từ nguyên tắc xét xử công khai quy định
tại Điều 18 BLTTHS 2003: “phiên tòa phải được tổ chức cơng khai, trừ trường hợp xử
kín nhưng cũng phải tuyên án công khai”. Nguyên tắc xét xử công khai đã được ghi
nhận tại Điều 67 Hiến pháp 1946, Điều 101 Hiến pháp 1959, Điều 133 Hiến pháp
1980, Điều 131 Hiến pháp 1992, Điều 18 BLTTHS 2003. Việc ghi nhận nguyên tắc
này trong “đạo luật mẹ” ngay từ khi hiến pháp đầu tiên được ban hành chứng tỏ các
nhà lập pháp đã nhận thức được vai trò rất quan trọng của nguyên tắc này đối với việc
xét xử vụ án.
Ngun tắc cơng khai địi hỏi việc xét hỏi phải được tổ chức tại phiên tòa, đảm
bảo mọi người quan tâm có quyền được biết và tham dự. Thủ tục xét hỏi thực hiện việc
12
kiểm tra, đánh giá tính khách quan, liên quan và hợp pháp của chứng cứ. Một trong
những yếu tố để đảm bảo tính thuyết phục của kết quả kiểm tra chính là sự tham gia,
chứng kiến trực tiếp của những người tham gia phiên tòa. Đây cũng là cơ chế để bảo vệ
quyền cho các chủ thể có lợi ích liên quan đến vụ án trong bối cảnh quyền con người,
quyền công dân trở thành mối quan tâm hàng đầu, đặt biệt trong lĩnh vực chính trị.
Mặc dù nguyên tắc xét hỏi công khai không được ghi nhận trực tiếp trong
BLTTHS 2003 như nguyên tắc xét xử công khai nhưng tinh thần của nguyên tắc này
được thể hiện trong nhiều quy định của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV đọc cáo trạng mở đầu thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm là một biểu hiện của tính cơng khai. KSV cơng bố cho mọi người có
mặt tại phiên tịa biết về nội dung vụ án. Riêng đối với bị cáo, bản cáo trạng mà KSV
đọc trước tòa cũng là bản cáo trạng mà bị cáo đã nhận nhưng khác biệt ở chỗ việc đọc
tại phiên tịa là thực hiện việc cơng khai buộc tội của KSV đối với bị cáo. Đây là cơ sở
để bị cáo đối chiếu với nội dung bản cáo trạng mà mình đã nhận trước phiên tịa, nếu
tồn tại sự khác biệt thì đó là căn cứ hỗn phiên tịa để đảm bảo quyền bào chữa của bị
cáo trừ trường hợp sự khác biệt chỉ nhằm làm rõ hơn nội dung bản cáo trạng đã nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm, “trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử
phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của
kháng cáo hoặc kháng nghị” (Điều 247 BLTTHS). Việc cơng khai này ngồi mục đích
đảm bảo quyền lợi của người bị kháng cáo, kháng nghị thì cịn giúp những người tham
gia phiên tòa dễ nắm bắt nội dung vụ án, diễn biến vấn đề, tạo mạch liên kết khi theo
dõi, suy nghĩ và đánh giá việc xét xử, kể cả Hội thẩm (nếu có) là chủ thể khơng bắt
buộc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước phiên tòa.
Bước hỏi là sự đối đáp trực tiếp giữa người hỏi và người bị hỏi diễn ra cơng khai
tại phiên tịa với sự có mặt của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các
chủ thể khác tham dự phiên tòa. Việc kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa, xem xét tại chỗ
chứng cứ, hiện trường vụ án cũng phải được thực hiện bởi những người có chức năng
theo luật định dưới sự chứng kiến của các chủ thể liên quan.
13
Như vậy, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo tính khách quan và dân
chủ thì thủ tục xét hỏi đòi hỏi phải được thực hiện công khai.
1.2.2 Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói, liên tục
Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói, liên tục được quy định trực tiếp tại Điều
184 BLTTHS 2003 và được cụ thể hóa tại các quy định về thủ tục xét hỏi ở chương
XX. Cũng giống như nguyên tắc xét hỏi công khai, nguyên tắc này không được ghi
nhận trực tiếp mà thể hiện thông qua quy định xét hỏi các đối tượng bị hỏi và xem xét
chứng cứ.
Xét hỏi trực tiếp
Xét hỏi trực tiếp là việc chủ thể xét hỏi tự mình thực hiện những hoạt động mà
pháp luật tố tụng hình sự quy định về chức năng, quyền hạn của mình khi tham gia vào
thủ tục xét hỏi. Các chủ thể xét hỏi phải tiến hành vấn đáp; xem xét, đánh giá chứng cứ
ngay tại phiên tòa; hoặc phải đến trực tiếp hiện trường để xem xét tại chỗ chứ không
chỉ căn cứ vào hồ sơ sẵn có từ Cơ quan điều tra, VKS.
Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp được thực hiện qua việc hỏi và nghe ý kiến của người
bị hỏi. Muốn đảm bảo tính trực tiếp thì chủ thể xét hỏi là HĐXX và KSV bắt buộc phải
có mặt tại phiên tịa và những người được xét hỏi phải được triệu tập đến phiên tòa
(thuộc trường hợp luật định). NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và các chủ
thể bị hỏi có thể vắng mặt trong những trường hợp được phép nhưng phải đảm bảo
không ảnh hưởng đến việc xét xử.
Ý nghĩa của việc mở phiên tòa chỉ được bảo đảm khi nguyên tắc xét hỏi trực tiếp
được thực hiện nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này cũng đảm bảo tính độc lập của Tịa án
khi xét xử vì Tịa án dựa vào kết quả các hoạt động tại phiên tòa và có quyền xử khác
với ý kiến của Cơ quan điều tra, VKS. Sự vi phạm nguyên tắc này cũng là vi phạm
nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án và nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa của bị cáo, tùy vào mức độ ảnh hưởng mà bản án có thể bị hủy tồn bộ hay một
phần.
Xét hỏi bằng lời nói
14
Rõ ràng thuật ngữ “xét hỏi” cũng đã nêu lên được hoạt động đặc trưng của thủ
tục này là nêu câu hỏi và trả lời giữa hai nhóm chủ thể. Do vậy, phương thức thực hiện
hoạt động này chỉ có thể bằng lời nói. Và “chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày
chính xác những suy nghĩ và nhận xét của mình. Vì vậy, khơng thể xét xử mà không
nghe lời khai về các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và yêu cầu của các người có quyền lợi
và nghĩa vụ được giải quyết trong vụ án” [21].
Nội dung của xét hỏi bằng lời nói là các chủ thể có quyền hỏi để làm rõ những
tình tiết liên quan đến vụ án. Người được hỏi phải được trình bày tất cả nội dung liên
quan đến việc hỏi trừ trường hợp HĐXX xét thấy nội dung trả lời đã được trình bày
hoặc khơng cần thiết cho việc chứng minh vụ án thì có thể u cầu chủ thể trả lời
khơng tiếp tục nội dung đó nữa. Trường hợp người cần hỏi vắng mặt thì cơng bố lời
khai của họ tại cơ quan điều tra.
Xét hỏi liên tục
Xét hỏi liên tục có nghĩa từ khi bắt đầu thủ tục này bằng việc KSV đọc bản cáo
trạng cho đến khi mọi vấn đề về vụ án được làm sáng tỏ thông qua việc hỏi và xem xét
chứng cứ phải diễn ra tiếp nối nhau, không được gián đoạn. Xét hỏi phải liên tục trừ
thời gian nghỉ vì lý do cần thiết được luật cho phép.
Việc xét hỏi diễn ra liên tục sẽ giúp HĐXX tập trung tư tưởng để hỏi và liên kết
các kết quả được hỏi, kết luận vụ án đảm bảo tính lơ-gíc; người tham gia phiên tịa dễ
theo dõi, có cái nhìn tồn diện về vụ án. Đồng thời tính liên tục được đặt ra nhằm giải
quyết dứt điểm vụ án, tiết kiệm thời gian, góp phần giảm tồn đọng án. Để đảm bảo tính
liên tục thì chủ thể hỏi và bị hỏi phải có mặt liên tục tại phiên tòa từ khi bắt đầu đến khi
kết thúc, riêng Thẩm phán và Hội thẩm luôn cần những người dự khuyết và họ cũng
phải có mặt tại phiên tịa từ đầu.
Nguyên tắc mang tính chất nền tảng, định hướng cho nên chỉ khi chấp hành
nghiêm chỉnh nguyên tắc đặt ra cho hoạt động thì xét hỏi mới khơng vi phạm pháp luật
và đạt được mục đích cuối cùng là chân lý khách quan.
15
1.3 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác tại phiên tòa
1.3.1 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tịa
Phiên tịa hình sự là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết một vụ án, bao
gồm một hệ thống các thủ tục độc lập nhưng có mối liên hệ chặt chẽ: thủ tục bắt đầu
phiên tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Các
thủ tục của phiên tịa diễn ra theo một trình tự, trong sự hỗ trợ lẫn nhau nhằm giải quyết
vụ án một cách hiệu quả. Thủ tục xét hỏi lại là thủ tục rất quan trọng trong phiên tịa xét
xử, mang tính chất quyết định trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Xét hỏi
vừa tiếp nối thủ tục bắt đầu phiên tòa, vừa là tiền đề cho những thủ tục sau đó.
Thủ tục bắt đầu phiên tịa là bước khởi động phiên tòa, chuẩn bị những điều kiện
cần thiết nhằm đảm bảo cho việc xét xử diễn ra đúng đắn, khách quan. Thực hiện quy
định về thủ tục bắt đầu phiên tịa để xác định sự có mặt của những người tham gia tố
tụng qua sự kiểm tra của thư ký Tòa án. Nội quy phiên tòa được phổ biến là cơ sở đảm
bảo trật tự phiên tòa. Tại thủ tục này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện giới thiệu
thành phần HĐXX và những người tham gia phiên tịa khác ngồi bị cáo, ngun đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan; kiểm tra căn cước những
người được triệu tập. Đặc biệt là việc giải thích quyền, nghĩa vụ tố tụng của những
người tham gia phiên tòa, kiểm tra việc nhận bản cáo trạng của bị cáo. Nếu không đảm
bảo những hoạt động này không những vi phạm thủ tục tố tụng mà còn vi phạm quyền
con người.
Như trên đã đề cập, thủ tục bắt đầu phiên tòa chuẩn bị những điều kiện cần thiết
để phiên tòa được diễn ra mà bước tiếp theo chính là thủ tục xét hỏi. Do đó, bắt đầu
phiên tịa là cơ sở cho thủ tục xét hỏi, nếu xảy ra những căn cứ để hỗn phiên tịa ngay
ở bước đầu thì thủ tục xét hỏi tất nhiên cũng không được diễn ra. Ngược lại, thủ tục xét
hỏi lại bổ sung cho thủ tục bắt đầu phiên tịa. Nếu ở phần bắt đầu, chưa có hoặc đã có
yêu cầu của các chủ thể tham gia phiên tòa về triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa
thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét thì tại bước hỏi, các chủ thể này có quyền đưa ra
hoặc tiếp tục đưa ra yêu cầu này.
16
1.3.2 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa
Xét hỏi và tranh luận là hai thủ tục tố tụng độc lập trong sự hỗ trợ lẫn nhau.
Tính độc lập thể hiện ở nội dung, nhiệm vụ sẽ giải quyết, phạm vi chủ thể cũng
như cách thức tham gia,... Tranh luận là một thủ tục tố tụng nối tiếp thủ tục xét hỏi,
nghĩa là chỉ khi nào chủ tọa phiên tòa thấy các chứng cứ của vụ án đã được kiểm tra,
xem xét đầy đủ thì mới chuyển sang thủ tục tranh luận. Đó là lý do vì sao khơng nhập
hai thủ tục thành một dù giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Mọi vấn đề thuộc về xác định lời khai, tài liệu có phải là chứng cứ của vụ án hay
khơng, xác định tính hợp pháp và có căn cứ của chứng cứ đều được thực hiện trong thủ
tục xét hỏi. Thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời trực tiếp của chủ thể hỏi và người bị
hỏi, sự thật khách quan của vụ án sẽ được làm sáng tỏ. Hoạt động tranh luận là đánh
giá về tình trạng pháp lý của các tình tiết, chứng cứ được xác định ở bước hỏi thông
qua việc hai bên đối trọng đưa ra lý lẽ, lập luận để chứng minh cho ý kiến của mình là
đúng. Xét hỏi là tiền đề cho tranh luận vì kết quả của xét hỏi là cơ sở để bên buộc tội
và bên bào chữa xây dựng những luận cứ cho việc tranh luận. Xét hỏi khoa học, đầy
đủ, khách quan sẽ góp phần cho tranh luận hiệu quả. Trong mối quan hệ tương quan
này, tranh luận sẽ giúp cho những tình tiết khi hỏi được làm sáng tỏ, thuyết phục. Nếu
thông qua tranh luận thấy xét hỏi cịn thiếu sót thì bổ sung hoặc nếu sau khi tranh luận
mà phát hiện những vấn đề chưa được hỏi hoặc có hỏi nhưng chưa làm rõ thì HĐXX sẽ
quyết định quay lại bước hỏi.
1.3.3 Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục nghị án và tuyên án
Sau khi kết thúc phần tranh luận sẽ là thủ tục nghị án và tuyên án. Nghị án là việc
HĐXX thảo luận và thông qua bản án tại phòng nghị án trên cơ sở biểu quyết theo đa
số. Nếu xét thấy cịn những tình tiết chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì
HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi.
Kết quả của xét hỏi là cơ sở để nghị án và thông qua nghị án sẽ quyết định giá trị
chứng minh của chứng cứ được xem xét trong thủ tục xét hỏi. Khoản 3 Điều 222
BLTTHS 2003 quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã
được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
17
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại
phiên tồ”. Thơng thường bản án do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa soạn thảo nhưng
phải được HĐXX thảo luận và quyết định từng nội dung đã được làm rõ tại phần xét
hỏi và phần tranh luận. Một bản án, quyết định khách quan và thuyết phục chỉ khi
HĐXX nhận thức đúng đắn về tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án đã được kiểm tra
cơng khai tại phiên tịa, trước sự chứng kiến của tất cả các bên liên quan.
1.4 Lƣợc sử sự phát triển của thủ tục xét hỏi trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam trƣớc năm 2003
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử phát
triển đất nước. Sự thay đổi của các giai đoạn cách mạng là cơ sở chuyển đổi chính sách
pháp luật. Tuy nhiên, Luật TTHS phát triển thành một ngành luật độc lập và hoàn thiện
được ghi nhận kể từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Do vậy, lịch sử phát triển thủ
tục xét hỏi thay đổi theo pháp luật tố tụng hình sự ở mỗi thời kỳ.
1.4.1 Pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét hỏi trong giai đoạn 1945-1988
Trước thời điểm năm 1988 - thời điểm BLTTHS Việt Nam đầu tiên được ban
hành, thủ tục xét hỏi được quy định rải rác tại các sắc lệnh, nghị định, thông tư, công
văn.
Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại trên cơ
sở quy định của một số văn bản pháp lý mới. Các sắc lệnh lần lượt được ban hành để
đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử tội phạm giải quyết hậu quả chiến tranh và thích
ứng trong tình hình mới: Sắc lệnh ngày 13/9/1945 về việc thành lập Tòa án quân sự,
sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh 21 ngày 14/02/1946, Sắc lệnh số 46 ngày
10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư, Sắc lệnh 13 ngày 24/01/1946, Sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949 được cụ thể hóa bằng Nghị định số 01/NĐ - VY ngày 12-011950 của Bộ Tư pháp về việc mở rộng quyền bào chữa. Các sắc lệnh là cơ sở pháp lý
quan trọng cho hoạt động xét xử nhưng qua thời gian áp dụng thì khơng cịn phù hợp
với tình hình phát triển dân chủ, đặt ra yêu cầu cần có những cải cách nhất định về thủ
tục tư pháp. Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 đưa ra mục tiêu dân chủ hơn bộ máy tư
pháp, đơn giản và hợp lý hóa thủ tục tố tụng. Theo đó để thể hiện rõ nét tính dân chủ,
18