BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
DƢƠNG THỊ TUYẾT
MÃ SỐ SINH VIÊN: 0955030139
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT TRONG PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 THEO ĐỊNH HƢỚNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2009 – 2013
Giảng viên hƣớng dẫn: Th.s PHAN ANH TUẤN
Giảng viên khoa Luật Hình sự
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM
CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI .............................................................................................................1
1.1. Khái niệm về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt ........................... 1
1.2. Đặc điểm của các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt ........................... 2
1.3. Sơ lƣợc lịch sử về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt trong pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ..................................................................... 3
1.3.1. Giai đoạn 1945 – 1985 .......................................................................... 3
1.3.2. Giai đoạn 1985 – 1999 .......................................................................... 8
1.3.3. Giai đoạn 1999 đến nay ......................................................................... 9
1.4. Bảo vệ quyền con ngƣời và các yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời đối với
các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt ....................................................... 11
1.4.1.Quyền con người và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con người trong
pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt ............................................................... 11
1.4.2. Các yêu cầu bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm
chấp hành hình phạt ................................................................................................. 17
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM
CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 1999 ................................................................................................22
2.1. Thực trạng quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
trong Phần Chung Bộ luật hình sự năm 1999 ........................................................... 22
2.1.1. Miễn chấp hành hình phạt ................................................................... 22
2.1.2. Giảm mức hình phạt đã tuyên .............................................................. 41
2.1.3.
Án treo ............................................................................................... 46
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
trong Phần Chung Bộ luật hình sự năm 1999 ........................................................... 51
2.2.1. Những kết quả đạt được của các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt trong Phần Chung Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................. 51
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế của các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt trong Phần Chung Bộ luật hình sự năm 1999 ..................................................... 52
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ
CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TRONG
PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 THEO ĐỊNH HƢỚNG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI .................................................................58
3.1. Bổ sung quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
đối với nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, đặc biệt là đối với ngƣời khuyết tật ..... 59
3.2. Bổ sung quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
có điều kiện ............................................................................................................ 64
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
1.1.
Khái niệm về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
Miễn chấp hành hình phạt, Giảm mức hình phạt đã tuyên và Án treo (gọi
chung là các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt) là những biện pháp nằm
trong chế định các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự được quy định trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Việc áp dụng các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt khơng những để khuyến khích người bị kết án cải tạo mà cịn thể hiện được tinh
thần nhân đạo của nhà nước ta là luôn luôn coi trọng con người, dùng giáo dục cải
tạo là chủ yếu để giúp những người phạm tội trở thành người cơng dân tốt. Đó cũng
chính là sự tiếp bước cho tư tưởng nhân đạo từ xưa tới nay của ông cha ta: “Đánh
người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Tuy nhiên, cho đến nay nhà làm luật
vẫn chưa đưa ra định nghĩa về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt. Vì
vậy, trong phạm vi đề tài này tác giả đưa ra các khái niệm như sau:
Miễn chấp hành hình phạt được hiểu là việc Tịa án căn cứ vào những điều
kiện luật định khơng buộc người bị kết án phải chấp hành một phần hoặc tồn bộ
hình phạt đã tun gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn
chấp hành hình phạt đã tun trong bản án của Tịa án đối với người đang chấp hành
án khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự.
Án treo là hình thức miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều kiện ở
đây là trong thời gian thử thách người bị kết án không được phạm tội mới. Nếu trong
thời gian thử thách người bị kết án vẫn tiếp tục phạm tội thì phải chấp hành hình phạt
tù đã tuyên.
Với những khái niệm trên cho phép chúng ta nghiên cứu về pháp luật của các
biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt một cách sâu sắc hơn, cơng tác hồn thiện
quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt trong Phần Chung của
Trang 1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BLHS theo định hướng bảo vệ quyền con người theo đó cũng trở nên đúng với trọng
tâm mà nhiệm vụ đã đưa ra hơn.
1.2.
Đặc điểm của các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
Từ việc chỉ ra các khái niệm cơ bản về các biện pháp miễn, giảm chấp hành
hình phạt, tác giả cũng xác định một vài nét đặc điểm về các biện pháp này như sau:
-
Chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp
miễn, giảm chấp hành hình phạt chủ yếu là Tòa án còn trong một số
trường hợp đặc biệt là Quốc hội (đại xá) và Chủ tịch nước (đặc xá).
-
Việc xét miễn, giảm của Tịa án mang tính chất thường
xuyên phụ thuộc vào quá trình cải tạo của người phạm tội. Trong quá
trình bị kết án, nếu người bị kết án đã thể hiện sự tích cực, tiến bộ trong
việc tự cải tạo bản thân hoặc lâm vào hoàn cảnh khách quan đặc biệt và
làm cho họ khơng cịn khả năng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nữa thì họ xứng đáng được nhận sự khoan hồng của nhà nước. Điều này
sẽ là động lực, là nguồn động viên kịp thời cho người bị kết án, giúp họ
có nhiều cơ hội tái hịa nhập cộng đồng hơn. Riêng đối với trường hợp
đặc xá và đại xá thì do chúng chỉ được ban hành trong những hoàn cảnh
đặc biệt của đất nước nên việc xét miễn chấp hành hình phạt khơng phải
được tiến hành thường xun.
-
Việc áp dụng các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt phải dựa vào các căn cứ luật định. Đây là những biện pháp thể hiện
tính nhân đạo của nhà nước ta, có tác dụng làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nói chung và hình phạt nói riêng cho người phạm tội. Nếu như
những biện pháp này không được áp dụng một cách chặt chẽ thì nó khơng
những đi ngược lại với mục đích ban đầu là khuyến khích người bị kết án
tích cực cải tạo bản thân mình để sớm được tái hòa nhập cộng đồng, mà
còn gây nên nhiều hệ lụy nguy hiểm khác cho xã hội. Do đó, việc quy
định các căn cứ để áp dụng các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
là vấn đề vơ cùng quan trọng.
Trang 2
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Ngồi các đặc điểm chung trên thì giữa biện pháp miễn chấp hành hình phạt
và giảm mức hình phạt đã tun cịn có thêm đặc điểm sau:
-
Người được miễn chấp hành hình phạt khơng cịn phải
chấp hành hình phạt đã được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án,
nhưng trách nhiệm dân sự là thuộc lĩnh vực chấp hành án dân sự nên họ
không được miễn thi hành trách nhiệm dân sự.
-
Đối với giảm mức hình phạt đã tuyên là việc rút ngắn
thời hạn chấp hành hình phạt đã tuyên trong bản án, quyết định của Tịa
án chứ khơng phải Tịa án có quyền thay thế hình phạt này bằng hình phạt
khác nhẹ hơn.
1.3. Sơ lƣợc lịch sử về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
Các quy phạm về miễn, giảm trách nhiệm hình sự nói chung và các biện pháp
miễn, giảm chấp hành hình phạt nói riêng đã có q trình hình thành và phát triển lâu
dài. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đề cập một cách sơ lược về lịch
sử hình thành và phát triển của các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Trong hơn 65 năm tồn tại và phát triển, bắt đầu từ các sắc lệnh đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ban hành vào giữa những năm 40 rồi qua
hai lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự vào năm 1985 và năm 1999, các biện pháp
miễn, giảm chấp hành hình phạt đã có sự kế thừa và phát triển đáng kể. Để thấy được
rõ sự phát triển này, tác giả triển khai phân tích trong những giai đoạn sau:
1.3.1.
Giai đoạn 1945 – 1985
Năm 1945 được đánh giá là một mốc son lịch sử của cả dân tộc nước ta. Với
thành công của Cách mạng tháng Tám đã mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc ta: kỉ
nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng xã hội. Thế nhưng, bên cạnh đó nước ta cũng phải đối đầu với mn vàn khó
Trang 3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
khăn, thử thách để bảo vệ thành quả cách mạng. Nhiệm vụ xây dựng chính quyền
cách mạng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đấu tranh chống ngoại xâm, nội
phản,… trở thành những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta.
Trước tình thế đó, pháp luật hình sự nói chung và pháp luật về miễn, giảm chấp hành
hình phạt nói riêng chưa có điều kiện để được quan tâm một cách sâu sắc.
Do hoàn cảnh và những điều kiện cụ thể của đất nước nên hệ thống các văn
bản pháp luật hình sự của nước ta chưa được thống nhất trong một văn bản pháp luật
mà chủ yếu chúng được nằm rải rác trong các văn bản dưới luật. Trong thời kỳ từ
1945 đến 1954, các quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt được quy định trong
một vài văn bản pháp luật liên quan như:
-
Sắc lệnh số 33D-SL ngày 19/9/1945, Sắc lệnh quy định
thể lệ phóng thích các tội nhân bị kết án trước ngày 19/8/1945 của Chủ
tịch Chính phủ lâm thời.
-
Sắc lệnh 52-SL ngày 20/10/1945 cơng bố xóa miễn cho
tám loại tội phạm trước ngày 19/8/1945 (Điều 1) và quy định “những tội
được xóa miễn đều coi như khơng phạm bao giờ, quyền cơng tố sẽ tiêu
hủy, những chính hình và phụ hình mà Tịa án đã tun đều bỏ hết”
(Điều 4).
-
Sắc lệnh số 148-SL ngày 19/8/1946 về ân giảm tù khổ
-
Thơng tư 413-TTg ngày 19/11/1954 của Thủ tướng
sai.
Chính phủ về đại xá nhân dịp giải phóng thủ đơ.
Trong giai đoạn này, các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt được
nhắc đến là: phóng thích, giảm một phần hình phạt và án treo. Tại đoạn 1 Điều thứ
hai Sắc lệnh số 89/SL&NBSP ngày 26 tháng 9 năm 1947 của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa về việc giảm ân xá, ân giảm nhân ngày kỉ niệm quốc
kháng năm 1947 quy định: “Những người bị Tòa án thường xử phạt dưới 12 tháng tù
mà hiện còn bị giam đều được phóng thích ngay nếu đã ngồi tù được quá nửa hạn tù
và nếu mới bị phạt tù lần này là lần đầu. Những người nào bị Tòa án thường xử phạt
Trang 4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
trên 12 tháng tù hoặc khổ sai trừ những hạng người kể ở điều thứ ba, mà hiện nay
cịn bị giam đều được phóng thích nếu đã ngồi tù được quá nửa hạn tù hoặc khổ sai
và nếu mới bị phạt tù, và khổ sai lần này là lần đầu, tuy nhiên những người ấy đều
phải quản thúc ở nguyên quán hay ở một nơi khác do Ủy ban kháng chiến khu nơi
phạm nhân đang bị giam, ấn định và trong một thời hạn ngang với thời hạn mà phạm
nhân đáng nhẽ còn phải ngồi tù…”. Điều kiện để được áp dụng biện pháp này: một
là, đã có thời gian ngồi tù quá nửa hạn tù; hai là, mới bị phạt tù lần đầu; ba là, không
rơi vào các trường hợp được quy định tại Điều thứ ba(1) của Sắc lệnh. Đối với người
bị Tòa án xử phạt trên 12 tháng tù thì cịn phải chịu quản thúc trong một thời gian
nhất định. Như vậy phóng thích có thể được xem như là một trường hợp miễn chấp
hành phần hình phạt cịn lại và điều kiện để được áp dụng biện pháp này chủ yếu vẫn
là dựa vào thời gian đã chấp hành án của người bị kết án.
Đối với trường hợp chưa đủ thời gian đã chấp hành án để được phóng thích thì
có thể được xem xét để được giảm một nửa hoặc một phần ba mức hình phạt tù đang
chấp hành. Quy định này được thể hiện tại đoạn 2 Điều thứ hai Sắc lệnh
89/SL&NBSP: “Những người nào bị Tòa án thường xử phạt dưới 12 tháng tù, nếu là
sơ phạm, mà chưa ngồi tù được quá nửa hạn tù thì nay được giảm một nửa hạn tù.
Những người nào bị Tòa án thường xử phạt trên 12 tháng tù hoặc khổ sai, trừ những
hạng người kể ở Điều thứ ba nếu là sơ phạm mà chưa ngồi tù được quá nửa hạn tù,
thì nay được giảm một phần ba hạn tù hoặc khổ sai; tuy nhiên những người ấy, khi
nào được tha ở đề lao ra, đều phải quản thúc ở nguyên quán hay ở một nơi khác do
Ủy ban kháng chiến khu nơi phạm nhân đang bị giam ấn định và trong một thời hạn
ngang với thời hạn mà đáng nhẽ còn phải ngồi tù” [16]. Như vậy, nếu người nào mới
(1)
Điều thứ ba, Sắc lệnh 89/SL&NBSP quy định: “Đối với những người can tội ăn cướp, cố
ý giết người bắt giam người trái phép, cố ý đốt nhà, làm hoặc lưu hành giấy bạc giả, hối lộ
và biến thủ tiền công quỹ mà bị toà án thường xử trên 12 tháng tù hoặc khổ sai thì ngồi
điều kiện đã ngồi tù được quá nửa hạn tù còn phải được Uỷ ban hành chính tỉnh ở nơi phạm
nhân đang bị giam điều tra xem có nên phóng thích hay khơng”[16].
Trang 5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
bị phạt tù lần đầu mà chưa có ngồi tù được q nửa hạn tù mà khơng rơi vào các
trường hợp được quy định tại Điều thứ ba của Sắc lệnh thì được giảm một phần hình
phạt, có thể là được giảm một nửa hạn tù hay được giảm một phần ba hạn tù. Ngày
nay biện pháp này đã được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn ở quy định giảm mức
hình phạt đã tuyên trong BLHS.
Án treo trong thời kỳ này cũng đã được đề cập đến, Điều 10 Sắc lệnh số 21
ngày 14/02/1946 về tổ chức và thẩm quyền của Tòa án quân sự quy định: “Khi phạt
tù Tịa có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng.
Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tun
án, tội nhân khơng bị Tịa án qn sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì bản án
đã tun sẽ hủy đi, coi như khơng có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần
nữa trước một tịa án qn sự thì bản án sẽ đem thi hành”. Tuy nhiên, án treo ở đây
chỉ mới được đề cập như là một biện pháp miễn chấp hành bản án có điều kiện chứ
khơng phải là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện như quan
điểm hiện nay.
Việc áp dụng các quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt theo những
điều kiện trên được thực hiện một cách đơn giản, bởi lẽ, đây là thời điểm nước ta vừa
giành được độc lập sau một thời gian dài phải chịu áp bức của phong kiến và đế quốc
nên Nhà nước ta rất quan tâm đến sự tự do cho người dân. Mặt khác, khi mở rộng
điều kiện áp dụng các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt cũng giúp ích trong
việc khắc phục những tàn tích cịn lại của chế độ cũ.
Từ sau năm 1954 trở đi, nhiều quy định mới về biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt được ban hành. Nguyên nhân của sự thay đổi này xuất phát từ chuyển
biến trong hướng phát triển chính của hệ thống pháp luật hình sự ở nước ta, từ
hướng: hủy bỏ một bộ phận các đạo luật hình sự trước cách mạng, tạm thời giữ
nguyên hiệu lực của một số đạo luật hình sự trước cách mạng với điều kiện là không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Cộng hịa để áp dụng
trong những trường hợp hết sức hạn hữu với việc đưa vào đó nội dung giai cấp mới,
được chuyển sang hướng: cấm hoàn tồn việc áp dụng các đạo luật hình sự cũ và hủy
Trang 6
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
bỏ hồn tồn các đạo luật hình sự trước Cách mạng (đã được tạm thời giữ lại để áp
dụng trong thời kỳ trước đây). Ví dụ như:
-
Thơng tư 413-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
19/7/1957 về việc ân xá, ân giảm nhân dịp quốc khánh ngày 2/9/1957.
-
Thông tư liên bộ số 73/TTLB của Bộ Tư pháp - Bộ Cơng
an - Viện Cơng tố Trung ương - Tịa án nhân dân tối cao ngày 11/8/1959
quy định điều kiện và thủ tục xử tha tù trước kỳ hạn.
-
Pháp lệnh về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án
tử hình năm 1978 được ban hành kèm theo Lệnh của Chủ tịch nước số
115-CTN ngày 2/2/1978.
-
Nghị quyết của Hội đồng Nhà nước số 385-NQ/HĐNN
ngày 30/8/1983 về việc tha cho những phạm nhân ở tù ít nhất ½ mức án
với điều kiện đã cải tạo tốt.
-
Nghị quyết của Hội đồng Nhà nước số 646-NQ/HĐNN
ngày 29/8/1985 về việc đặc xá nhân dịp lễ quốc khánh ngày 2/9/1985.
Điều kiện ân giảm án tù trong thời kỳ này cũng có sự thay đổi đáng kể, Nhà
nước ta đã xác định phạm nhân muốn được giảm án chỉ căn cứ vào mức cải tạo để
giảm án là chưa đủ mà còn phải xem xét người đó đã cải tạo tốt hay chưa, tức là phải
đảm bảo được điều kiện cải tạo và điều kiện thời gian ở tù. Cải tạo tốt được biểu hiện
trên ba mặt: kỷ luật, lao động sản xuất và thái độ chính trị (phải yên tâm cải tạo, phục
tùng nội quy và kỷ luật của trại; phải yêu lao động và có lao động thực sự; phải ủng
hộ chế độ xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào chế độ mới, có ý thức xây dựng trại, tự
mình tích cực cải tạo và giúp các phạm nhân khác cải tạo tốt, có đấu tranh tư tưởng
trong các buổi học tập sinh hoạt trong trại, phát hiện thêm về tội trạng của mình nếu
trước đây chưa khai hết với cơng an và Tòa án, phát hiện cho Ban quản giáo những
âm mưu, hành động xấu của các phạm nhân khác,…). Mặt khác, khi xét về điều kiện
cải tạo này, các cơ quan có trách nhiệm phải xét thành tích cải tạo kết hợp với tính
chất phạm pháp và lý lịch của phạm nhân để có nhận định đúng về mức cải tạo của
phạm nhân. Cần phải thận trọng và đề phòng trường hợp phạm nhân giả vờ cải tạo.
Trang 7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đặc biệt, thời kỳ này cũng đã có quy định giảm án tù trong trường hợp đặc biệt đối
với những phạm nhân có nhiều thành tích cải tạo hoặc lập công như giúp đỡ trại cải
tạo kịp thời khám phá những tổ chức phản động, những tổ chức vượt ngục hay bạo
động trong trại, v.v…, trường hợp phạm nhân già yếu, có bệnh nặng, trường hợp phụ
nữ đơng con, v.v… thì có thể châm chước về điều kiện thời gian ở tù cũng như là về
mức giảm án tù [17].
Như vậy, nhìn chung quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt của pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1945 - 1985 vẫn chưa
được hệ thống một cách cụ thể, chúng chỉ mới nằm trong các văn bản dưới luật như:
Sắc lệnh, Nghị quyết, Thông tư của nhà nước ta. Chính các văn bản pháp luật đó đã
góp phần xây dựng nên những cơ sở đầu tiên về mặt lập pháp cho sự hình thành các
quy định của pháp luật hình sự mới của nhà nước cơng nơng nói chung và những quy
định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt nói riêng.
Tuy nhiên, hầu hết các quy định trên chỉ mới mang tính chất là những giải
pháp “tình thế” chứ chưa thể là những chuẩn chung để đáp ứng cho nhiệm vụ xây
dựng nhà nước kiểu mới. Mãi cho đến năm 1985 – khi quá trình pháp điển hóa pháp
luật diễn ra với sự ra đời của Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hịa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì pháp luật hình sự về miễn, giảm chấp hành hình phạt mới có
những thay đổi đáng kể.
1.3.2.
Giai đoạn 1985 – 1999
Sự thay đổi to lớn nhất trong giai đoạn này đó là việc pháp điển hóa các quy
định về miễn, giảm chấp hành hình phạt và kết quả của q trình pháp điển đó là sự
ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985. Vẫn trên cơ sở kế thừa những cơ sở nền tảng
của các quy định cũ, đến giai đoạn này các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt đã được hệ thống thành những điều luật cụ thể và rõ ràng hơn, như: án treo
(Điều 44), giảm thời hạn chấp hành hình phạt chính (Điều 49), giảm thời hạn chấp
hành hình phạt bổ sung (Điều 50), giảm thời hạn và miễn thời hạn chấp hành hình
phạt trong trường hợp đặc biệt (Điều 51), giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với
người chưa thành niên (Điều 66) và tạm hoãn, miễn hoặc giảm việc chấp hành hình
Trang 8
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
phạt đối với quân nhân phạm tội (Điều 69). Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985
đã tạo ra một quy định thống nhất cho các trường hợp được hưởng chính sách miễn,
giảm chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam. Đồng thời, thể hiện
được trình độ khoa học pháp lý hình sự trong giai đoạn này đã có sự phát triển vượt
bậc so với giai đoạn trước và thể hiện được tư tưởng nhân đạo của nhà nước ta.
Tuy nhiên, do ra đời trong tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế có
nhiều thay đổi lớn nên mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng Bộ luật hình sự 1985
vẫn khơng đáp ứng được u cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội
phạm trong điều kiện mới(2). Vì vậy, Nhà nước ta tiếp tục ban hành Bộ luật hình sự
lần thứ hai vào năm 1999 với những thay đổi mới phù hợp hơn, đáp ứng được vai trò
ổn định trật tự xã hội của pháp luật hình sự trong thời đại mới.
1.3.3.
Giai đoạn 1999 đến nay
Vào năm 1999, Nhà nước ta tiếp tục ban hành Bộ luật hình sự thứ hai, thay thế
Bộ luật hình sự năm 1985. Lúc này, các quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt
được quy định thống nhất tại chương VIII của BLHS. Bên cạnh việc kế thừa những
quy định từ Bộ luật hình sự cũ, các quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt
trong giai đoạn này còn được mở rộng thêm các điều kiện áp dụng, nhờ đó việc áp
dụng pháp luật trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn và đáp ứng được sự thay đổi. Các biện
pháp này được quy định tại Điều 57 (miễn chấp hành hình phạt), Điều 58 (giảm mức
hình phạt đã tuyên), Điều 59 (giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp
đặc biệt), Điều 60 (án treo) và Điều 76 (giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người
chưa thành niên phạm tội). Theo đó, bổ sung vào chế định miễn chấp hành hình phạt
hai căn cứ mới là: khi có quyết định đại xá hoặc đặc xá; Sửa đổi quy định giảm thời
hạn chấp hành hình phạt (mà trước đây Bộ luật hình sự 1985 đã quy định bởi hai điều
luật riêng biệt là giảm thời hạn chấp hành hình phạt chính và giảm thời hạn chấp
hành hình phạt bổ sung thì nay được gộp thành quy định về giảm mức hình phạt đã
(2)
Từ 1985 – 1999, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm
1989, 1991, 1992 và 1997, đã có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung.
Trang 9
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
tun). Ngồi ra, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành cũng được ban hành nhằm
hướng dẫn cách áp dụng và thủ tục tiến hành các biện pháp miễn, giảm chấp hành
hình phạt. Ví dụ như:
-
Nghị định số 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/10/2000 thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo.
-
Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ngày 02/10/2007 về việc hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn
chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
-
Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 22/10/2010 bổ sung một số hướng
dẫn của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007.
-
Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-
TANDTC-VKSNDTC của Bộ cơng an – Bộ quốc phịng – Tòa án nhân
dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 14/8/2012 hướng dẫn
rút ngắn thời gian thử thách của án treo.
-
Thông tư liên tịch 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-
VKSNDTC của Bộ cơng an – Bộ quốc phịng – Tịa án nhân dân tối cao
– Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 16/8/2012 hướng dẫn giảm, miễn
thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành
thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại,…
Qua việc tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của các biện pháp miễn,
giảm chấp hành hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay,
tác giả nhận thấy rằng:
Cùng với tiến trình phát triển của đất nước, khi chế độ dân chủ ngày được quan
tâm và mở rộng hơn thì các quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt cũng được
quy định một cách chặt chẽ và có hệ thống hơn. Các quy định sau thể hiện mối quan
tâm của nhà nước đến các quyền của con người cao hơn so với các quy định trước.
Điều đó chứng tỏ tính chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng phát
Trang 10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
triển. Tuy nhiên, nếu so sánh với những quy phạm pháp luật của các ngành luật khác
như: thương mại, lao động, đất đai,… thì sự phát triển của các quy định này có phần
chậm hơn. Từ khi BLHS được ban hành đến nay, cho dù đã trải qua lần sửa đổi, bổ
sung vào năm 2009 nhưng những quy định về miễn, giảm chấp hành hình phạt cũng
khơng có gì thay đổi, trong khi đó bối cảnh nền kinh tế - xã hội của nước ta trong
tình hình mới lại có rất nhiều chuyển biến.
1.4. Bảo vệ quyền con ngƣời và các yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời đối với
các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
1.4.1.
Quyền con người và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con
người trong pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt
Quyền con người với những cơ sở xã hội sâu xa và ý nghĩa to lớn của nó ln
là một trong những vấn đề mn thuở trong tiến trình phát triển lịch sử, văn hóa và
xã hội của lồi người. Hơn nữa, nó cịn được đánh giá là “một trong mười sáng kiến
làm thay đổi thế giới”[26-tr. 221]. Trải qua hàng nghìn năm, nó ln nằm ở trung
tâm sự chú ý của các tư tưởng triết học, chính trị và đạo đức pháp lý.
Chính vì vậy, trong lịch sử nhân loại đã hình thành và tồn tại nhiều quan niệm
khác nhau về quyền con người, trong đó có ba quan niệm cơ bản sau:
Quan niệm thứ nhất: Quan niệm này thuộc trường phái pháp luật tự nhiên,
xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là
quyền tự nhiên. Một số quan điểm bậc thầy về quan điểm tự nhiên của con người đó
là Grotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau, khẳng định quyền con người là
quyền tự nhiên vốn có, là các quyền cơ bản như quyền sống, quyền được tự do,
quyền có tài sản.
Thuyết pháp luật tự nhiên đã hồn thành vai trị lịch sử của nó, xác lập về mặt
tư tưởng nguyên tắc bảo vệ quyền con người trước quyền lực. Mặc dù, thuyết pháp
luật tự nhiên có những giá trị nhân bản, có ý nghĩa tích cực, tiến bộ trong nhận thức
về quyền con người, nhưng nếu chỉ quan niệm quyền con người là quyền tự nhiên
bẩm sinh thì quan niệm đó vẫn cịn phiến diện, chưa tồn diện và chưa đầy đủ về
Trang 11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
quyền con người. Nhận thức này đã tuyệt đối hóa quyền con người với tư cách là
quyền thực thể sinh học – tự nhiên thuần túy. Từ đó, dẫn đến tuyệt đối hóa cá nhân
trong các mối quan hệ cộng đồng xã hội, coi con người là bất biến, không phụ thuộc
vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc, tơn giáo, chính trị. Quan niệm như vậy
đã phủ nhận tính giai cấp, tính xã hội, tính đặc thù của quyền con người.
Quan niệm thứ hai: Đặt con người cũng như quyền con người trong tổng thể
của các mối quan hệ xã hội. Theo quan niệm này thì con người đơn giản là một thực
thể xã hội, do vậy, quyền con người chỉ được xác định trong mối quan hệ với các
thành viên khác trong xã hội và được nhà nước, pháp luật ghi nhận bảo vệ. Tuy
nhiên, nếu quyền con người được hiểu như vậy sẽ dễ dẫn đến chủ quan, phủ nhận
hoặc coi thường quyền con người với tư cách tự nhiên là con người. Từ đó dẫn đến
các sai lầm như: buộc cá nhân con người phải hòa tan trong xã hội, quyền con người
hoàn toàn phụ thuộc và được định đoạt bởi nhà nước, là thứ “quà tặng” hay “ban
phát” của chế độ nhà nước, của giai cấp thống trị và những người cầm quyền.
Quan điểm thứ ba: Đây là quan điểm biện chứng của triết học Mác – Lênin,
trong đó con người được xem xét với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và của xã hội.
Quyền con người là một thuộc tính tự nhiên, thể hiện nổi bật nhất ở quyền được
sống, quyền được tự do, quyền được sáng tạo, quyền được đối xử như con người,
xứng đáng với con người. Tuy nhiên, những quyền đó khơng phải tự nhiên mà có mà
con người phải trải qua một q trình khai thác và đấu tranh lâu dài đề từng bước
được công nhận, được làm chủ những quyền ấy. Dựa vào sự phát triển của lực lượng
sản xuất, trình độ phát triển kinh tế xã hội, quyền con người cũng ngày càng mở rộng
và hoàn thiện hơn. Mặt khác, C. Mác còn nhấn mạnh bản chất của con người là tổng
hòa của các mối quan hệ(3).Do đó, bản chất quyền con người cũng không chỉ thuần
túy là những quyền tự nhiên, mà nó phải được đặt vào tổng hịa các mối quan hệ xã
(3)
Trong Luận Cương về Phoiơbắc, C. Mác đã viết: “Bản chất con người không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hịa những quan hệ xã hội” [54].
Trang 12
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
hội, chịu sự ràng buộc của xã hội, gắn với quá trình chinh phục tự nhiên và phát triển
xã hội, gắn với pháp luật của từng quốc gia. Do vậy, tại khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn
Thế giới về Nhân quyền, 1948 đã xác định: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của
mình, mội người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo
đảm sự cơng nhận và tơn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người
khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công
cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” [41-tr.381]. Quan niệm của Mác –
Lênin về quyền con người đã khắc phục được nhược điểm trong nhận thức về quyền
con người của hai quan niệm trên và cho đến nay quan niệm này vẫn cịn ngun giá
trị lý luận của nó.
Mặc dù đã có quan niệm nhận thức chung nhưng tùy vào từng góc độ nghiên
cứu, từng mục đích tìm hiểu thuộc phạm trù triết học, chính trị học, luật học, kinh tế
học hay xã hội học,… mà các nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm về quyền con người
theo một cách riêng. Dưới góc độ đề tài này, tác giả cũng đưa ra quan điểm về quyền
con người như sau:
Quyền con người là một phạm trù rộng lớn, nó bao gồm các quyền về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội,… Đó là những địi hỏi chính đáng về tự do và nhu cầu
cuộc sống cơ bản cần được đáp ứng của con người. Nó có mối liên hệ chặt chẽ với sự
phát triển của trình độ kinh tế - xã hội.
Mặc dù tư tưởng về quyền con người đã có từ lâu đời, thậm chí ngay trong các
nền văn minh cổ đại cũng đã có sự tồn tại của nó(4) nhưng cho đến khi có sự nhận
(4)
Tư tưởng quyền con người được khởi thủy từ khi Trái Đất xuất hiện những nền văn minh
cổ đại, mà một trong đó là nền văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000 – 1.500
trước Cơng ngun). Chính trong nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ
Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm 1780 trước
Cơng ngun), theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để: “…ngăn
ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”,… làm cho người cơ quả có nơi nương tựa ở thành
Babylon,… đem lại hạnh phúc chân chính và đặt “nền thống trị nhân từ” cho mọi thần dân
trên vương quốc [55].
Trang 13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thức triết học về quyền con người thì pháp luật về quyền con người mới có sự phát
triển vượt bậc. Đến những năm đầu của thế kỷ XIX, vấn đề bảo vệ quyền con người
đã trở thành một nhân tố không kém phần quan trọng trong các chương trình nghị sự
và văn kiện của các hội nghị khu vực và quốc tế. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, với việc ra đời của Liên hợp quốc, thơng qua Hiến chương (24/10/1945), Tun
ngơn Tồn thế giới về Nhân quyền (10/12/1948), Công ước Quốc tế về các Quyền
Dân sự, Chính trị (1966) và Cơng ước Quốc tế về Các quyền Kinh tế, Xã hội, Văn
hóa (1966) ngành luật quốc tế về quyền con người đã chính thức được khai sinh, đặt
nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hóa quyền con người – nền văn hóa mới và
chung của mọi dân tộc trên Trái đất.
Cho đến nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người đã
được thông qua, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được hình
thành, biến quyền con người thành một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan
hệ quốc tế. Trong diễn văn nhân kỷ niệm 50 năm ra đời của bản Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền, nguyên Tổng thư ký Liên hợp quốc Koffi Annan đã khẳng định:
“Quyền con người là cơ sở của sự tồn tại và cùng tồn tại của mọi người. Quyền con
người là phổ biến, không thể chia tách và phụ thuộc lẫn nhau. Quyền con người là
cái làm nên nhân loại chúng ta. Đó là những ngun tắc mang tính cơ sở để chúng ta
thiết lập cái ngôi nhà thiêng liêng cho phẩm giá của lồi người”.
Khơng đứng ngồi guồng máy phát triển chung của toàn thế giới, Việt Nam
cũng ngày càng quan tâm hơn tới vấn đề bảo vệ quyền con người. Tính đến nay nước
ta đã phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế về quyền con người của Liên Hợp Quốc như:
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự, Chính trị (gia nhập ngày 24/09/1982), Cơng
ước Quốc tế về Các quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hóa (gia nhập ngày 09/06/1982),
Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (gia nhập ngày
17/02/1982),Công ước về Quyền của trẻ em (phê chuẩn ngày 28/02/1990), Công ước
về Quyền của người khuyết tật (gia nhập ngày 20 tháng 10 năm 2007),…
Ngay từ thời kì đầu độc lập, trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý lớn của thời đại mới trong thế kỉ
Trang 14
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
XX, đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thấy các quyền con người phải được bảo vệ và phải được ghi nhận bằng pháp
luật. Chỉ sau một ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày hôm sau trong phiên họp đầu
tiên của chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xem việc tổng tuyển cử, xây
dựng Hiến pháp là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách. Người nêu: “Trước chúng ta đã
bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chun chế, nên nước ta khơng có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”[38 - tr.123].
Ngày 09 tháng 11 năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa được thơng qua, ghi nhận các quyền tự do của công dân, quyền con
người cho nhân dân ta, ghi nhận thành quả mà dân tộc ta đã đạt được trong suốt quá
trình đấu tranh giành chính quyền như: quyền được tham gia chính quyền, quyền
bình đẳng giới, quyền tự do ngơn ngữ, hội họp,… Qua các bản Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 các quyền con người trong pháp luật
Việt Nam được tiếp tục phát triển và quy định một cách chặt chẽ, đầy đủ hơn thông
qua chương quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Đặc biệt, trong Điều 50
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã khẳng định: “Ở nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong hiến pháp và pháp luật”. Đây là lần đầu tiên pháp luật ghi nhận cụm từ
“quyền con người” vào trong Hiến pháp. Điều đó đã phản ánh nhận thức ngày càng
sâu sắc về quyền con người trong quá trình đổi mới.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, đường lối nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta vẫn đặt con người ở vị trí trung tâm của các chính sách kinh tế, chính trị và
xã hội mà trong đó thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng để phát
triển bền vững, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: “Chăm lo cho con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người. Tôn trọng và thực hiện các
Trang 15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.” [40].
Đây là cơ sở chính trị vững chắc để tiến hành những hành động thực tiễn nhằm bảo
vệ và thúc đẩy sự phát triển của quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhà nước ta coi trọng phát triển và bảo vệ quyền con người không chỉ trên phương
diện lý luận mà còn trong cả hoạt động thực tiễn. Chiến lược về con người và quyền
con người của Đảng và Nhà nước ta đã được đặt ra như một vấn đề trọng tâm và là
một hướng nghiên cứu cơ bản để phục vụ cho mục đích là xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu quan trọng là “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Như vậy, bảo vệ quyền con người là vấn đề luôn được đặt ra trong những xã
hội mà ở đó quyền con người được tơn trọng, bảo vệ. Pháp luật Hình sự là một ngành
luật quy định về tội phạm và trách nhiệm hình sự, người chịu trách nhiệm hình sự là
người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi nhất. Trách nhiệm hình sự có thể dẫn
đến các hậu quả như tước bỏ quyền và tự do hay thậm chí tước bỏ cả tính mạng của
chủ thể và để lại án tích cho người phạm tội, nó liên quan đến quyền được sống,
quyền được tự do,… của con người. Do vậy, pháp luật hình sự là ngành luật có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền con người. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao trong
những năm gần đây các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp để tăng cường âm mưu “Diễn biến hịa bình” chống phá Nhà
nước ta. Vậy nên, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự nói
chung và pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt nói riêng khơng chỉ có ý
nghĩa trong việc thực hiện nhiệm vụ là hướng đến xây dựng mục tiêu chung của đất
nước mà còn nhằm đảm bảo trật tự, ổn định tình hình an ninh chính trị. Trong pháp
luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt, bảo vệ quyền con người cịn có ý nghĩa: chủ
động phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khuyến khích người bị kết án học tập, cải tạo
bản thân, hướng đến giá trị chân – thiện – mỹ của con người.
Để thực hiện thành cơng nhiệm vụ hồn thiện quy định về các biện pháp miễn,
giảm chấp hành hình phạt trong Phần Chung BLHS theo định hướng bảo vệ quyền
con người thì trước hết cần phải hiểu được tại sao lại đặt ra nhiệm vụ bảo vệ quyền
Trang 16
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
con người đối với pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt. Việc xác định ý
nghĩa của việc bảo vệ quyền con người trong pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình
phạt như trên nhằm mục đích lý giải cho vấn đề đó.
1.4.2.
Các u cầu bảo vệ quyền con người đối với các biện
pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
Ngồi việc hiểu được tại sao lại đặt ra nhiệm vụ bảo vệ quyền con người đối
với pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt, để cơng tác hồn thiện quy định
pháp luật được tiến hành khách quan, có hiệu quả thì cần phải tiến hành xác định
những yêu cầu bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp hành
hình phạt. Có thể chỉ ra bốn yêu cầu chính sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt thơng qua các quy định phù hợp với các công ước quốc tế khác về
quyền con người.
Quyền con người là một vấn đề rộng lớn, nó khơng chỉ bó hẹp trong một quốc
gia, một lãnh thổ mà trên phạm vi tồn cầu. Nó có ý nghĩa to lớn về cả mặt đối nội và
đối ngoại. Cho nên nhiều nội dung của quyền con người đã vượt quá giới hạn của
một quốc gia và đang đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các quốc gia, cũng như những
nỗ lực chung của cả cộng đồng thế giới để bảo vệ quyền con người. Do đó, để bảo vệ
quyền con người cần phải thông qua các quy định phù hợp với các công ước quốc tế
khác về quyền con người. Hiện nay, Điều ước quốc tế về quyền con người đã có sự
phát triển mạnh mẽ, nó tạo thành những quy định bắt buộc cho các quốc gia thành
viên trong vấn đề bảo vệ quyền con người. Do vậy, để bảo vệ quyền con người nói
chung và bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt nói riêng trước hết nó phải tuân thủ theo các quy định trong các Điều ước quốc
tế về quyền con người mà nước ta đã tham gia(5).
(5)
Lời nói đầu của Tun ngơn Tồn thế giới về Nhân quyền, 1948 đã chỉ rõ: “Các quốc gia
thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ
chung các quyền và tự do cơ bản của con người” [41-tr.375].
Trang 17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Thứ hai, việc bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt cần phải được ghi nhận đầy đủ và chính xác trong các văn bản pháp
luật và một số quy định pháp luật liên quan khác liên quan đến quy định về các biện
pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt.
Lời nói đầu của Tun ngơn Tồn thế giới về Nhân quyền,1948 cũng đã ghi
nhận nguyên tắc: “Điều cốt yếu là các quyền con người phải được pháp luật bảo
vệ…” [41-tr.375]. Do đó, để quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt được bảo vệ thì điều quan trọng là phải có một nền pháp luật quy
định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt đầy đủ và chính xác.
Yêu cầu này cũng phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con người. Nó
được Liên hợp quốc khẳng định một cách xác đáng tại Điều 8 Tun ngơn Tồn thế
giới về Nhân quyền,1948: “Mọi người đều có quyền được các Tịa án quốc gia có
thẩm quyền bảo vệ bằng biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các
quyền cơ bản của họ mà đã được Hiến pháp hay pháp luật quy định” [41- tr.377]; tại
khoản 2 Điều 2 Phần II Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự, Chính trị cũng quy
định: “Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp
lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ
tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy
định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác
nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này” [41-tr.391]; cịn tại
khoản 1 Điều 2 Phần II Cơng ước Quốc tế về Các quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hóa lại
quy định: “Mỗi quốc gia thành viên Cơng ước này cam kết sẽ tiến hành các biện
pháp, một cách riêng rẽ và thông qua sự hợp tác giúp đỡ quốc tế, đặc biệt là các
biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tới mức tối đa các tài ngun sẵn có của mình,
nhằm đạt được việc bảo đảm ngày càng đầy đủ các quyền được thừa nhận trong
Công ước này bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt kể cả việc thông qua những
biện pháp lập pháp” [41-tr.383],…
Trang 18
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nếu yêu cầu này được đảm bảo thì cơng tác hồn thiện các quy định về các
biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt theo định hướng bảo vệ quyền con người
sẽ mang tính khả thi cao hơn và được thực hiện nghiêm túc hơn.
Thứ ba, việc bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt cần phải được nhận thức một cách thống nhất trong tư duy pháp lý
hình sự.
Quyền con người trong pháp luật về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt sẽ khơng được bảo vệ nếu như tư duy pháp lý về nó khơng được thống nhất. Do
đó các quy định về miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tun phải có
sự phối hợp với nhau, đảm bảo được sự hài hòa giữa các quy định của Phần Chung
và Phần Các tội phạm được quy định trong BLHS. Các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt phải được áp dụng tương ứng với mức độ nguy hiểm của từng loại tội
phạm đã được quy định tại Phần Các tội phạm. Ví dụ như: điều kiện để được hưởng
án treo là: bị xử phạt tù khơng q ba năm, có nhân thân tốt và có từ hai tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS trở lên. Đồng thời, đánh giá tội
“Giết người” là tội phạm nguy hiểm nên nhà làm luật đã quy định mức hình phạt tối
thiểu của tội phạm này là bảy năm tù. Như vậy, người bị kết án về tội “Giết người”
rất khó để được hưởng án treo. Nhờ đó hạn chế được việc áp dụng các biện pháp
miễn, giảm chấp hành hình phạt một cách tùy tiện, đánh mất vai trò, ý nghĩa của các
chính sách khoan hồng mà nhà nước đang hướng tới.
Thứ tư, việc bảo vệ quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp
hành hình phạt phải nhằm đạt được mục đích đấu tranh phịng ngừa tội phạm.
Trong q trình hồn thiện các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt
theo định hướng bảo vệ quyền con người thì phải vừa đạt được mục đích bảo vệ
quyền con người vừa đạt được mục đích đấu tranh phịng ngừa tội phạm. Bảo vệ
quyền con người nhưng không đồng nghĩa với việc bao che cho tội phạm. Bảo vệ
quyền con người đối với các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt trong BLHS
cũng phải nhằm hướng đến việc: thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên
quyết đấu tranh chống tội phạm và thơng qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa,
Trang 19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó bồi dưỡng cho mọi cơng
dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia
phòng ngừa và chống tội phạm.
Trên đây là một số yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người đối với các biện
pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt. Đảm bảo được các u cầu này sẽ có tác dụng
làm cho cơng tác hồn thiện pháp luật về miễn, giảm chấp hành hình phạt theo định
hướng bảo vệ quyền con người không nằm ngoài hành lang pháp lý về quyền con
người cũng như hướng tới mục tiêu phát triển chung của pháp luật hình sự.
Qua nghiên cứu “những vấn đề lý luận chung về các biện pháp miễn, giảm
chấp hành hình phạt và vấn đề bảo vệ quyền con người” tác giả rút ra một số kết luận
như sau:
1.
Các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt là những quy
định có vai trị và ý nghĩa hết sức to lớn trong việc thể hiện chính sách
nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chúng
vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng.
2.
Những quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình
phạt từ năm 1945 đến nay đã được phát triển và hoàn thiện hơn. Từ những
quy định một cách đơn giản và riêng lẻ trong các Sắc lệnh, dần dần chúng
đã xác định được vị trí quan trọng của mình trong pháp luật hình sự và trở
thành một phần thiết yếu trong Bộ luật hình sự để thể hiện tính nhân đạo
của nhà nước ta.
3.
Bảo vệ quyền con người là một vấn đề rộng lớn và nhạy cảm
trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì vấn đề bảo vệ quyền con
người càng được chú trọng và nâng cao. Nó thu hút được sự chú ý rộng rãi
của dư luận thế giới và trở thành nhân tố quan trọng cho một nền văn hóa
mới cho tồn thế giới.
4.
Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội trên thế giới có nhiều biến động, dẫn đến sự thay đổi trong nhận
Trang 20
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thức, phương hướng và đường lối quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Hòa
chung với xu thế phát triển toàn cầu, Việt Nam cũng ngày càng quan tâm
sâu sắc tới vấn đề bảo vệ quyền con người cả trên phương diện lý luận
cũng như thực tiễn. Các điều ước quốc tế về quyền con người được Việt
Nam tham gia ngày càng nhiều, đặt ra nhiệm vụ luật hóa các điều ước
quốc tế vào quy phạm pháp luật trong nước. Nhà nước tiến hành công tác
xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo định hướng bảo vệ quyền con người
theo những yêu cầu khách quan của sự phát triển, đảm bảo đúng nhiệm vụ
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được đề ra. Đó là các
u cầu:
-
Phải thơng qua các quy định phù hợp với các công ước quốc tế
khác về quyền con người;
-
Phải được ghi nhận đầy đủ và chính xác trong các văn bản pháp
luật và một số quy định pháp luật liên quan khác liên quan đến quy định về
các biện pháp miễn, giảm chấp hành hình phạt;
-
Phải được nhận thức một cách thống nhất trong tư duy pháp lý
hình sự;
-
Phải nhằm đạt được mục đích đấu tranh phịng ngừa tội phạm.
Trang 21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP MIỄN, GIẢM CHẤP HÀNH
HÌNH PHẠT TRONG PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1.
Thực trạng quy định về các biện pháp miễn, giảm chấp hành
hình phạt trong Phần Chung Bộ luật hình sự năm 1999
Tội phạm được nhìn nhận như là một hiện tượng xã hội và bắt nguồn từ xã
hội, nên phải giải quyết trên các cơ sở xã hội và có tầm chính sách chứ khơng phải
chỉ là biện pháp, trong đó giáo dục là quan trọng nhất. Khi một nền giáo dục chú
trọng vào việc giáo dục tình thương giữa con người với nhau thì chắc chắn xã hội đó
sẽ giảm bớt tội phạm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Xét xử đúng là tốt, nhưng
nếu không phải xét xử càng tốt hơn”, nên Người địi hỏi phải “lấy giáo dục làm
chính”. Chính vì vậy, nếu người bị kết án được giáo dục tốt thì họ có thể thay đổi
nhận thức, tư duy sống, biết ăn năn, hối cải, biết nhận ra giá trị sống cho mình. Bên
cạnh đó, nếu chúng ta biết phát huy khả năng tự cải tạo của bản thân người bị kết án,
biết đưa ra những chính sách phù hợp để khuyến khích họ cải tạo thì tình hình tội
phạm sẽ được cải thiện rõ rệt. Trên tinh thần ấy, nguyên tắc nhân đạo ra đời và chi
phối trong tất cả các quy phạm pháp luật hình sự nước ta. Từ đó, các biện pháp miễn,
giảm trách nhiệm hình sự nói chung và các biện pháp về miễn, giảm chấp hành hình
phạt nói riêng được ban hành và quy định ngày một rõ ràng hơn.
2.1.1. Miễn chấp hành hình phạt
Hình phạt là hình thức chủ yếu của trách nhiệm hình sự và là một trong những
chế định cơ bản của luật hình sự cho nên chấp hành hình phạt là một khâu quan trọng
để hiện thực hóa sự tác động của trách nhiệm hình sự lên những hành vi phạm tội.
Mục đích của hình phạt vừa “nhằm trừng trị người phạm tội” vừa “giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Bên cạnh đó, nó cịn có mục đích
giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội
phạm”(Điều 27 BLHS). Ngồi ra, pháp luật hình sự cịn đặt ra ngun tắc “tiết kiệm
Trang 22