Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoàn thiện cơ chế giám sát hiến pháp trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒN THIỆN CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: ThS. Đinh Thị Cẩm Hà
Học viên: Nguyễn Ý Ngọc
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2014


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN ------------------------------------------------------ 1
1.1. Khái niệm về nhà nƣớc pháp quyền ---------------------------------------------------- 1
1.1.1. Sự hình thành và phát triển tƣ tƣởng nhà nƣớc pháp quyền -------------------- 1
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền ----------------------------- 4
1.2. Giám sát Hiến pháp và vai trò của giám sát Hiến pháp trong xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền. ------------------------------------------------------------------------------------- 6
1.2.1. Khái niệm giám sát Hiến pháp ----------------------------------------------------- 6
1.2.2. Vai trò của giám sát Hiến pháp trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền. ------ 8
1.3. Cơ chế giám sát Hiến pháp ------------------------------------------------------------- 11
1.3.1. Khái niệm cơ chế giám sát Hiến pháp -------------------------------------------- 11
1.3.2. Những yếu tố cơ bản trong giám sát Hiến pháp -------------------------------- 12
Chủ thể thực hiện giám sát Hiến pháp ------------------------------------------------ 12
Đối tƣợng xem xét ----------------------------------------------------------------------- 13
1.3.3. Hình thức giám sát Hiến pháp và việc xử lý các trƣờng hợp vi phạm Hiến
pháp ------------------------------------------------------------------------------------------- 14


1.3.3.1. Hình thức giám sát Hiến pháp ----------------------------------------------- 14
1.3.3.2. Kết quả xử lý------------------------------------------------------------------- 15
1.3.4. Các mơ hình giám sát Hiến pháp trên thế giới. Ƣu và nhƣợc điểm ---------- 15
1.3.4.1. Mơ hình giám sát Hiến pháp phi tập trung ---------------------------------- 15
1.3.4.2. Mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung ------------------------------------- 18
1.3.4.3. Mơ hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp --------------------------------------- 22
1.3.4.4. Mơ hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan giám sát Hiến pháp ---- 22
CHƢƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN
PHÁP Ở VIỆT NAM -------------------------------------------------------------------------- 23
2.1. Cơ chế giám sát Hiến pháp qua các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 ---------------------------------------- 23


2.1.1. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1946 ------------------------ 24
2.1.2. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1959 ------------------------ 25
2.1.3. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1980 ------------------------ 27
2.1.4. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) ----------------------------------------------------------------------------------------- 27
2.2. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 ------------- 30
2.2.1. Quốc hội ------------------------------------------------------------------------------ 30
2.2.2. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội ------------------------------------------------------- 32
2.2.3. Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội --------------------------------- 33
2.2.4. Đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội ------------------------------------- 34
2.2.5. Chủ tịch nƣớc ------------------------------------------------------------------------ 35
2.2.6. Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ ---------------------------------------------- 35
2.2.7. Viện kiểm sát nhân dân------------------------------------------------------------- 36
2.2.8. Tòa án nhân dân --------------------------------------------------------------------- 36
2.2.9. Cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng -------------------------------------------------- 37
2.2.10. Nhân dân Việt Nam --------------------------------------------------------------- 38
2.3. Những thay đổi trong Hiến pháp năm 2013 – Cơ sở xây dựng cơ quan giám sát

Hiến pháp chuyên trách ---------------------------------------------------------------------- 38
2.4. Đánh giá thực trạng cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay ----------- 40
2.4.1. Ƣu điểm. ------------------------------------------------------------------------------ 40
2.4.2. Hạn chế, bất cập --------------------------------------------------------------------- 41
Chƣơng 3. XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM, HOÀN
THIỆN CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP ---------------------------------------------- 44
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề xây dựng nhà nƣớc pháp quyền
và việc hoàn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp -------------------------------------------- 44
3.1.1. Quá trình thay đổi nhận thức về tổ chức, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa -------------------------------------------------------------------------------- 44
3.1.2. Định hƣớng xây dựng cơ chế giám sát Hiến pháp ------------------------------ 48
3.2. Mục đích hồn thiện cơ quan giám sát Hiến pháp----------------------------------- 49
3.2.1. Đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa --------- 49
3.2.3. Nhu cầu hội nhập Quốc tế --------------------------------------------------------- 50
3.3. Nguyên tắc hoàn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
--------------------------------------------------------------------------------------------50
3.3.1. Đảm bảo quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân ------------------------------- 50
3.3.2. Đảm bảo phù hợp với định hƣớng của Đảng ------------------------------------ 51


3.3.3. Đảm bảo việc kiểm soát hiệu quả các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp 52
3.4. Phƣơng hƣớng, lộ trình đổi mới và một số kiến nghị ------------------------------ 53
3.4.1. Một số mơ hình giám sát đặt ra --------------------------------------------------- 53
3.4.1.1. Tiếp tục giữ nguyên cơ chế giám sát hiện nay. Tăng cƣờng hoàn thiện hệ
thống pháp luật --------------------------------------------------------------------------- 54
3.4.1.2. Thành lập Ủy ban giám sát Hiến pháp thuộc Quốc hội ------------------- 54
3.4.1.3. Tòa án tối cao thực hiện quyền giám sát ----------------------------------- 55
3.4.1.4. Thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập (hoặc Hội đồng bảo hiến) --------- 56
3.4.1. Lộ trình đổi mới. Kiến nghị mơ hình trung gian trong giai đoạn hình thành
cơ quan giám sát Hiến pháp độc lập ----------------------------------------------------- 56

3.4.1.1. Thành lập cơ quan giám sát Hiến pháp thuộc Tòa án tối cao giai đoạn
2016-2010 --------------------------------------------------------------------------------- 57
3.4.1.2. Thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập trên nền tảng cơ quan thuộc Tịa án
tối cao -------------------------------------------------------------------------------------- 60
3.5. Hồn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp của Quốc hội ------------------------------- 62
3.5.1. Về nhận thức ------------------------------------------------------------------------- 62
3.5.2. Về cơ sở pháp lý--------------------------------------------------------------------- 64

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc pháp quyền là một trong những giá trị chung mang tính phổ biến, sản
phẩm chung của nhân loại đạt đƣợc trong quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài để hƣớng
đến một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, nơi mà ngƣời dân có đƣợc cuộc sống ấm
no, hạnh phúc và tự do. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền là xu hƣớng chung hiện nay
của các quốc gia văn minh trên thế giới, Việt Nam cũng khơng nằm ngồi sự phát triển
đó. Mặc dù nhận thức về một nhà nƣớc quản lý và đƣợc quản lý bằng pháp luật ra đời
từ thời kỳ đổi mới nhƣng đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tƣ
tƣởng “nhà nƣớc ta là nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân” mới đƣợc
khẳng định. Sau đó, lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001, nhà nƣớc ta chính thức ghi nhận:
“Nhà nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân”. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa nêu rõ quyết tâm
này. Đây là cơ sở hiến định cho định hƣớng phát triển nhà nƣớc đồng thời cũng thể
hiện mục tiêu của Đảng, nhà nƣớc và toàn thể nhân dân nhằm đƣa nƣớc ta phát triển,
ổn định và vững chắc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của nhà nƣớc, giữ vị trí quan trọng trong
chính trị và hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Đảm bảo vị trí tối cao của Hiến pháp

trong hệ thống pháp luật và đời sống xã hội đƣợc đánh giá nhƣ một yêu cầu, một phần
không tách rời trong nhà nƣớc pháp quyền. Do đó, nhu cầu thiết lập một cơ chế đảm
bảo cho tính hợp hiến của quyền lực nhà nƣớc và của các hành vi xã hội để bảo vệ tính
tối cao của Hiến pháp, bảo vệ các quyền tự do hiến định của công dân trở thành một
nhiệm vụ khi xây dựng nhà nƣớc pháp quyền. Ở Việt Nam, mặc dù đã hình thành cơ
chế giám sát Hiến pháp nhƣng những quy định còn rời rạc, chồng chéo, các chủ thể
chƣa thực hiện hiệu quả nhiệm vụ giám sát của mình theo Hiến pháp quy định. Định
hƣớng xây dựng một thiết chế giám sát Hiến pháp chuyên trách đƣợc xem nhƣ một
nhiệm vụ đƣợc đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam (năm 2006). Tiếp đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (năm 2011)
một lần nữa khẳng định quyết tâm chính trị trong quan điểm chỉ đạo đổi mới cơ chế


giám sát Hiến pháp ở Việt Nam: “Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan
công quyền”1. Dự thảo Hiến pháp năm 2013 cũng từng đề ra mơ hình Hội đồng Hiến
pháp, nhƣ một cơ quan chuyên trách giám sát Hiến pháp. Tuy nhiên, mơ hình này
khơng đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua.
Xây dựng cơ quan giám sát Hiến pháp chuyên trách ở Việt Nam hiện nay vẫn
còn là mục tiêu và quan điểm khoa học. Trong bối cảnh đó, tác giả chọn đề tài “Hoàn
thiện cơ chế giám sát Hiến pháp trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt
Nam” để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp góp phần hiện thực hóa quyết tâm
chính trị của Đảng trong công cuộc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Xây dựng và hồn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp không phải là đề tài mới.
Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề
này nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều chủ thể với nhiều cơng trình đa dạng về cấp độ
nghiên cứu. Trong đó có thể kể đến Hội nghị Khoa học bàn về “cơ chế bảo hiến” vào
tháng 5.2005 do Ban Công tác lập pháp của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội tổ chức. Ban
Công tác lập pháp cho ra đời cuốn “cơ chế bảo hiến” năm 2006 với những ý kiến của

các chuyện gia Luật hàng đầu trong cả nƣớc. Năm 2009 diễn ra Hội nghị khoa học
quốc tế do Văn phòng Quốc hội phối hợp Văn phòng phối hợp hỗ trợ cải cách tƣ pháp
và pháp luật tổ chức… Nhiều sách chuyên khảo cũng ra đời trong giai đoạn này nhƣ:
Tài phán Hiến pháp của PSG.TS Nguyễn Nhƣ Phát; Cơ chế giám sát Hiến pháp với
việc bảo đảm quyền con người của TS. Vũ Văn Nhiêm – ThS. Nguyễn Mạnh Hùng –
Lƣu Đức Quang; Tài phán Hiến pháp và vấn đề xây dựng mơ hình tài phán Hiến pháp
ở Việt Nam của GS.TS Đào Trí Úc, PSG.TS Nguyễn Nhƣ Phát… Và rất nhiều bài viết
trên các tạp chí khác nhau nhƣ: Cơ chế giám sát Hiến pháp theo các Hiến pháp Việt
Nam và vấn đề xây dựng tài phán Hiến pháp ở nước ta của PGS.TS Trƣơng Đắc Linh,
tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 1 năm 2007; Bàn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan tài phán Hiến pháp ở Việt Nam của Trần Ngọc Đƣờng, tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 10 năm 2007; Tài phán Hiến pháp và viễn cảnh chủ nghĩa hợp hiến ở Việt
Nam của Bùi Ngọc Sơn, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2009; Cơ chế giám sát
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng, 2011, tr.89.


Hiến pháp – góc nhìn tham khảo của Nguyễn Đức Lam, tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 10 năm 2003…Đề tài này đƣợc chọn làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn
Hoàng Vũ (năm 2004), Trƣơng Thị Thu Trang (năm 2009), Phan Thị Ngân (năm 2013)
và luận văn Thạc sĩ của Vũ Đình Lê (năm 2007). Trong các cơng trình này, tác giả đã
nghiên cứu, phân tính những vấn đề mang tính lý luận cũng nhƣ đánh giá thực trạng để
tìm ra một mơ hình giám sát Hiến pháp phù hợp với Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến trong hoạt động
và quyết định của các cơ quan công quyền và cơ chế phán quyết các hành vi vi phạm
Hiến phán trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Điều này tiếp tục đƣợc ghi

nhận là một trong những nhiệm vụ để xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 khơng quy
định một mơ hình giám sát Hiến pháp chuyên biệt. Với đề tài này, tác giả tập trung
nghiên cứu vai trò của giám sát Hiến pháp trong nhà nƣớc pháp quyền, thực trạng cơ
chế giám sát Hiến pháp hiện nay, mục đích đổi mới cơ chế giám sát Hiến pháp và lộ
trình xây dựng một cơ quan giám sát Hiến pháp độc lập trong điều kiện xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền với tƣ cách là một nhiệm vụ quan trọng trong mục tiêu xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp trong điều kiện xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam” Tác giả tập trung vào những vấn đề:
-

Sơ lƣợc về nhà nƣớc pháp quyền, qua đó làm sáng tỏ vai trị của giám sát
Hiến pháp trong nhà nƣớc pháp quyền. Đồng thời phân tích ƣu, nhƣợc điểm
của các mơ hình giám sát Hiến pháp điển hình trên thế giới.

-

Trình bày lịch sử hình thành và phát triển cơ chế giám sát qua trong lịch sử
lập hiến Việt Nam.
Định hƣớng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và nhiệm vụ thành lập cơ quan
tài phán Hiến pháp theo lãnh đạo của Đảng. Đánh giá thực trạng cơ chế giám
sát Hiến pháp để xây dựng lộ trình để thành lập Tịa án Hiến pháp trên cơ sở

-

tiếp thu kinh nghiệm thế giới.



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Tác giả thực hiện đề tài này trên cơ sở phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin để xem xét đánh giá các mặt của vấn đề
trong mối liên hệ với nhau và xuyên suốt từ lịch sử đến hiện tại. Ngồi ra, tác giả cịn
dựa trên ngun tắc tổ chức bộ máy nhà nƣớc ta.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Các biện pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá,
khái quát giá…đƣợc sử dụng xuyên suốt khóa luận, tùy thuộc vào từng nội dung mà
mức độ sử dụng khác nhau.
6. Bố cục nội dung
Khóa luận ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảogồm:
Phần mở đầu, 3 chƣơng, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận về giám sát Hiến pháp trong nhà nƣớc pháp quyền.
Chƣơng 2. Sự hình thành và phát triển cơ chế giám sát Hiến pháp Việt Nam
Chƣơng 3. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam, hoàn thiện cơ chế giám sát
Hiến pháp.


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Khái niệm về nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Sự hình thành và phát triển tƣ tƣởng nhà nƣớc pháp quyền
Thuật ngữ nhà nước pháp quyền đƣợc các học giả dịch từ thuật ngữ The Rule of
Law. Hiện nay các học giả trong nƣớc và trên thế giới cũng chƣa thống nhất khi đƣa ra
khái niệm nhà nƣớc pháp quyền.
Từ điển Luật học định nghĩa nhà nƣớc pháp quyền: “Nhà nước pháp quyền, nhà
nước lấy pháp luật là cơ sở pháp lý thống nhất cho việc điều hành mọi mặt hoạt động
của nhà nước, của xã hội, của mọi công dân, dùng pháp luật làm chuẩn mực để phân
biệt tính hợp pháp và khơng hợp pháp; việc được làm và không được làm trong thi
hành pháp luật của các cơ quan và cán bộ nhân viên nhà nước, trong việc tuân thủ
pháp luật của mọi cơng dân, tóm lại một nhà nước phục tùng một trật tự pháp lí loại

trừ tình trạng vơ chính phủ và tư nhân phục thù, các quyền dân chủ công dân được
đảm bảo”2.
PSG. TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: “The Rule of Law” dùng để chỉ một xã
hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền của tự nhiên, mọi chủ thể trong đó
có cả nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, các chủ thể được sử dụng tự do pháp
luật để làm lợi cho mình, nhưng không được vi phạm sang các quyền và lợi ích của chủ
thể khác”3.
GS. TS Đào Trí Úc nhấn mạnh: “Ngày nay, nói đến nhà nước pháp quyền,
trước hết người ta nói đến sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội và chính trị
với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ biến”4.
Dù các định nghĩa khơng hồn tồn thống nhất với nhau nhƣng có thể hiểu tinh
thần thuật ngữ nhà nƣớc pháp quyền là phƣơng thức tổ chức nền dân chủ theo cách
quyền lực nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật, lấy pháp luật đó làm trung tâm,

2

Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 350.
Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, tr. 26.
4
Đào Trí Úc (1995), Nhà nước pháp quyền: một số vấn đề cơ bản. Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp
luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.110.
3

Trang 1


nền tảng cho tổ chức, điều hành bộ máy nhà nƣớc, là thƣớt đo chuẩn mực của hành vi
trong xã hội, hƣớng đến mục tiêu bảo vệ quyền, lợi ích của mọi công dân.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, lịch sử con ngƣời sẽ tuần tự xuất hiện năm hình

thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tƣ bản chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Khơng có sự xuất hiện và tồn tại một hình thái nhà nƣớc
mang tên nhà nƣớc pháp quyền. Điều này có ý nghĩa nhà nƣớc pháp quyền khơng phải
một kiểu nhà nƣớc đƣợc xác định theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội mà là sự
phản ánh một trình độ tất yếu đạt tới của quyền lực nhân dân trong xã hội đƣợc tổ chức
thành nhà nƣớc, nó có thể tồn tại ở hình thái kinh tế - xã hội này đồng thời cũng có thể
tồn tại ở hình thái kinh tế - xã hội khác.
Học thuyết nhà nƣớc pháp quyền đƣợc biết đến gắn liền với cách mạng tƣ sản
thế kỉ XVII – XVIII, ra đời trong cuộc đấu tranh chống lại sự chuyên quyền, độc đoán
của giai cấp thống trị. Bản thân học thuyết hình thành là kết quả của quá trình chống lại
mâu thuẫn trong xã hội nên hoàn toàn lý giải đƣợc vì sao nhà nƣớc pháp quyền chỉ có
thể có đƣợc trong sự xác lập và phát triển nền dân chủ.
Tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền ra đời cùng với những tƣ tƣởng phát triển
dân chủ. Ngay từ thời kỳ cổ đại, các nhà tƣ tƣởng đã nêu ra những quan điểm, tƣ tƣởng
đề cao pháp luật, tổ chức nhà nƣớc để thƣợng tơn pháp luật.
Đầu tiên, có thể nói đến nhà tƣ tƣởng Arokhont Salon, nhiếp chính quan ngƣời
Hy Lạp ở La Mã (thế kỷ XI Tr. CN). Ông đã xác định một số khía cạnh của dân chủ
(giải phóng con ngƣời) và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối
quan hệ với các quan lại nhà nƣớc đồng thời cho rằng cần có sự kết hợp sức mạnh với
pháp luật trong tổ chức Nhà nƣớc Ai Cập cổ đại. Tƣ tƣởng của ông về vai trò của pháp
luật đƣợc diễn đạt nhƣ sau: “Ta giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp
luật, bằng sự kết hợp giữa sức mạnh và pháp luật”5. Đây chính là tiền đề để các nhà tƣ
tƣởng, các học giả giai đoạn tiếp theo xây dựng và phát triển học thuyết nhà nƣớc pháp
quyền.
Tiếp sau, nhà triết học Hy Lạp Platon (427-437 Tr. CN) cũng có nhận định:
“Tơi đã nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không
5

Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 294.


Trang 2


có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Cịn ở nơi nào pháp luật đứng trên các
nhà cầm quyền chỉ là những nô lệ của pháp luật thì đó tơi thấy được sự cứu thốt của
nhà nước”6. Quan điểm về tính tối cao của pháp luật trong xã hội ở Platon đã có sự rõ
nét và cụ thể hơn Salon. Nếu nhƣ Salon chỉ nêu ra vai trị của pháp luật trong tổ chức
nhà nƣớc thì Platon đã nhận thấy khả năng lạm quyền của nhà cầm quyền trong quản lý
và địi hỏi thƣợng tơn pháp luật để duy trì sự tồn tại của nhà nƣớc.
Bên cạnh hai nhà tƣ tƣởng trên, nhiều nhà tƣ tƣởng cổ đại khác nhƣ: Aristote
(384 – 322 Tr. CN), Xixeron (104 - 44 Tr. CN)…cũng đã chú trọng tới tính tối cao của
luật, pháp luật đồng thời quan tâm đến tổ chức nhà nƣớc, sự phân công quyền lực nhà
nƣớc. Những nhận định đó dù chỉ mới là những tƣ tƣởng, quan điểm sơ khai về dân
chủ, vai trò của pháp luật nhƣng giữ vai trò nền tảng để các nhà chính trị tƣ sản thế kỉ
XVII – XVIII nhƣ John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.
Rousseau (1712 - 1778), I. Kant (1724 - 1804), Thomas Jefferson (1743 – 1826) ,
Thomas Paine (1737 - 1809), John Adams (1735 - 1826), Hegel (1770 - 1831)…phát
triển và ngày càng hoàn thiện tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền với tƣ cách nhƣ một
thế giới quan pháp lý mới. Thế giới quan này khẳng định, nêu cao những tƣ tƣởng nhân
đạo, các nguyên tắc tự do và bình đẳng của cá nhân, quyền con ngƣời là một quyền bất
biến, bất khả xâm phạm, chống lại chế độ độc tài, đả kích chun chế độc quyền. Qua
đó tìm kiếm khơng ngừng mơ hình tổ chức chính quyền, bộ máy nhà nƣớc để tạo nên
một trật tự, thiết chế chống lại sự lạm quyền của nhà nƣớc, sự bất công của xã hội
đƣơng thời.
Trong giai đoạn này, nhà tƣ tƣởng đầu tiên cần nói đến: Montesquieu, luật gia
Pháp (1698 – 1755). Trên tiền đề của John Locke (1632 – 1704), ông đã phát triển,
hồn thiện để tạo thành thuyết phân quyền. Theo ơng, quyền lực đƣợc chia làm ba bộ
phận, nên giao cho ba cơ quan khác nhau, độc lập và có vị thế ngang nhau, đó là mối
quan hệ Lập pháp (Nghị Viện) – Hành pháp (Tổng thống) – Tƣ pháp (Tòa án). Phân

quyền là cơ sở để các bộ phận quyền lực có thể kiểm sốt, đối trọng nhau là điều kiện
tiên quyết để tránh xu hƣớng lạm dụng quyền lực để đảm bảo tôn trọng quyền con
ngƣời, tự do cá nhân7. Đây là nội dung học thuyết phân quyền đồng thời cũng là cốt lõi
6

Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 294.
7
Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 296.

Trang 3


trong tƣ tƣởng nhà nƣớc pháp quyền của Montesquieu. Tƣ tƣởng này đã có ảnh hƣởng
rất lớn đến cơ sở lý luận tổ chức bộ máy nhà nƣớc ở các nƣớc tƣ sản.
Ngồi ra, khơng thể khơng nhắc đến I. Kant (1724-1804), ông là ngƣời lập luận
về mặt triết học cho lý luận về nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản. Vậy nên cũng khơng có gì
bất hợp lý khi ngƣời ta gắn học thuyết này trƣớc hết cho tên tuổi của ông. Quan niệm
của Kant về nhà nƣớc là tập hợp những con ngƣời cùng chịu sự lãnh đạo của các đạo
luật về pháp quyền. Mục đích của nhà nƣớc là phải đảm bảo sự thắng lợi của pháp luật
và bản thân của nhà nƣớc cũng phải phục tùng những u cầu của pháp luật đó. Ơng
tán thành mơ hình nhà nƣớc phân quyền, ông cho rằng ở đâu áp dụng ngun tắc phân
quyền thì ở đó có nhà nƣớc pháp quyền khơng thì chỉ có tập quyền8. Tuy nhiên nhà
nƣớc ơng hƣớng đến phải là nhà nƣớc cộng hịa thuần túy, chân chính, nơi luật ngự trị
khơng phụ thuộc bất kì cá nhân nào.
Cuối cùng, nhà tƣ tƣởng Heghen (1770 -1831), ơng cũng có những tƣ tƣởng về
nhà nƣớc pháp quyền. Nhƣng khác với các nhà tƣ tƣởng trƣớc, cấu trúc nhà nƣớc pháp
quyền của Heghen là thần thánh hóa nhà nƣớc. Chủ nghĩa nhà nƣớc của ơng là duy
tâm: “Nhà nước là sự du ngoạn của trời trên đất”9.

Hệ thống những tƣ tƣởng, quan điểm của các học giả trên đã góp phần định hình
và hồn thiện học thuyết nhà nƣớc pháp quyền. Học thuyết này là tiền đề về mặt lý
luận cho việc xác định vai trò của pháp luật cũng nhƣ mối quan hệ của nó với phƣơng
thức tổ chức, xây dựng và cách thức vận hành nhà nƣớc của các nhà nƣớc xã hội hiện
đại đƣợc ngƣời ta hƣớng đến, gọi là nhà nƣớc pháp quyền. Cần nhấn mạnh rằng tƣ
tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền là một giá trị chung mà nhân loại đạt đƣợc trong xã hội
tƣ sản, chứ không phải sản phẩm riêng của xã hội tƣ sản.
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền
Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc hình thành trong xã hội dân chủ. Xây dựng và hiện
thực hóa nền dân chủ, xây dựng một nhà nƣớc mà nhân dân là chủ thể nắm quyền lực
chính trị, đó là xây dựng nhà nƣớc pháp quyền.
8

Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 296.
9
Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr.296.

Trang 4


Quan điểm của các nhà tƣ tƣởng, nhà lý luận chính trị - pháp lý trong lịch sử
phát triển tƣ tƣởng về hình thức tổ chức nhà nƣớc này cũng khơng giống nhau về cách
trình bày. Tuy nhiên, phổ qt lại đây là những đặc trƣng sau đƣợc đề cập nhiều, cũng
nhƣ nhận đƣợc sự đồng tình đa số của các học giả:
Thứ nhất, giá trị khuôn mẫu của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật trong
nhà nƣớc pháp quyền là chuẩn mực, thƣớc đo để hƣớng dẫn, điều chỉnh và đánh giá
hành vi của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong đó, Hiến pháp ở vị trí cao nhất.
Nhà nƣớc, pháp luật phải đƣợc tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp.

“Chắn chắn bất cứ ai thiết kế các Hiến pháp thành văn đều đặt vấn đề là đạo luật cơ
bản và tối cao của quốc gia, thì tất yếu lý thuyết hình thành chính quyền trên nền tảng
đó phải là một đạo luật thường trái với Hiến pháp sẽ bị coi là vô hiệu”10. Đây cũng là
Điều khác biệt rõ nét nhất giữa pháp quyền và pháp trị. Trong nhà nƣớc pháp trị, pháp
luật cũng đóng một vai trị rất lớn trong Điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong nhà
nƣớc, tuy nhiên, pháp luật khi đó là một cơng cụ để giai cấp thống trị cai trị đất nƣớc,
nghĩa là giai cấp thống trị đứng trên pháp luật. Trong nhà nƣớc pháp quyền lý tƣởng,
Hiến pháp có vị trí tối cao, dù là cơ quan nhà nƣớc nào cũng không đặt phép tùy tiện có
những hành vi, văn bản trái với nội dung, tinh thần Hiến pháp. Nghĩa là phạm vi điều
chỉnh của Hiến pháp và các luật là rộng khắp, không loại trừ một chủ thể nào trong xã
hội.
Thứ hai, quyền lực nhà nƣớc trong nhà nƣớc pháp quyền đƣợc tổ chức theo
nguyên tắc dân chủ, phân định rõ ràng, kiểm soát quyền lực đƣợc thực hiện triệt để,
hiệu quả theo ba chức năng cơ bản của nhà nƣớc là làm luật, thực thi pháp luật và xử lý
những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi. Các nhà tƣ tƣởng ở nhà nƣớc tƣ sản
cho rằng “bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi quyền lực thực hiện một chức năng riêng, có vị trí
ngang nhau để có nhiều khả năng hạn chế, kiềm chế hành vi lộng quyền và lạm quyền
của nhau”11. Yêu cầu Tƣ pháp độc lập cũng là một phần đặc trƣng của nhà nƣớc pháp
quyền.

10

Dẫn lại từ Vũ Văn Nhiêm-Nguyễn Mạnh Hùng-Lƣu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp – với việc
bảo đảm quyền con người, NXB Giáo dục Việt Nam, TP. HCM, tr.13.
11
Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân, vì Dân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 300.

Trang 5



Thứ ba, xác định vị trí trung tâm của con ngƣời trong nhà nƣớc pháp quyền. Lúc
này, con ngƣời là mục tiêu và giá trị cao nhất. Một trong những tiêu chí để đánh giá
tính pháp quyền của một chế độ nhà nƣớc là khả năng công dân đƣợc thực hiện quyền
của mình trên thực tế. Bởi lẽ, dân chủ là điều kiện, cơ sở cũng nhƣ là mục đích hƣớng
đến của nhà nƣớc pháp quyền. Do đó, hoạt động của nhà nƣớc phải bắt nguồn từ sự tôn
trọng quyền con ngƣời, tạo hành lang pháp lý an toàn để họ thực hiện các quyền của
mình theo ngun tắc cơng dân đƣợc làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Thứ tư, ở phƣơng diện đối ngoại, nhà nƣớc pháp quyền cần thực hiện đầy đủ
nguyên tắc Pacta sunt servanda (tạm dịch: tận tâm thực hiện cam kết quốc tế). Cam kết
quốc tế cũng đƣợc xem là luật chung của các bên tham gia, thực hiện nguyên tắc này
nghĩa là quốc gia ký kết, công nhận hoặc thừa nhận điều ƣớc quốc tế, bằng khả năng
kinh tế, chính trị của mình hiện thực hóa các cam kết đối với các quốc gia tham gia
khác. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa đối với công dân của các quốc gia liên quan, mà
cịn có ý nghĩa với chính uy tín của quốc gia trên trƣờng quốc tế.
Thứ năm, nhà nƣớc pháp quyền gắn với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp. Bất kì quốc gia nào theo chủ nghĩa Hiến pháp, xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền, thì đều có cơ chế giám sát Hiến pháp. Dù là mơ hình giám sát tập trung, chun
trách hay giao cho cơ quan lập hiến thực hiện, thì các nƣớc cũng đều hƣớng đến một
mục đích chung đó là đảm bảo bảo tính tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, việc lựa
chọn mơ hình giám sát nào phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thích hợp của một mơ
hình với điều kiện chính trị, xã hội, thể chế của từng quốc gia cụ thể. Dù vậy, có thể
nói, xây dựng và phát triển cơ quan bảo hiến không những trở thành nhu cầu của mỗi
quốc gia, mà còn là xu thế chung toàn cầu.
1.2. Giám sát Hiến pháp và vai trò của giám sát Hiến pháp trong xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền.
1.2.1. Khái niệm giám sát Hiến pháp
Thuật ngữ giám sát Hiến pháp lần đầu tiên đƣợc đƣa ra trong Hội nghị lập hiến
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1787. Theo mơ hình của Hoa Kỳ, giám sát Hiến pháp đƣợc

hiểu là giám sát tƣ pháp (Judicial review) - thẩm quyền của Tịa án trong việc xem xét
tính hợp hiến của các đạo luật đƣợc ban hành bởi các cơ quan hoặc các cấp chính

Trang 6


quyền khác. Ở châu Âu, thuật ngữ này xuất hiện cùng với mơ hình Tịa án Hiến pháp
của H. Kensel.
Theo từ điển Tiếng Việt: “giám sát là hoạt động theo dõi và kiểm tra xem có
thực hiện đúng những điều quy định hay không”12. Nhƣ vậy giám sát Hiến pháp có thể
đƣợc hiểu là hoạt động theo dõi, kiểm tra của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đối với
các cơ quan khác về việc thực hiện các quy định của Hiến pháp. Ở nƣớc ta hiện nay
vẫn chƣa thống nhất khái niệm giám sát Hiến pháp.
Có học giả cho rằng giám sát Hiến pháp “là tổng hợp các biện pháp giữ gìn,
chống lại sự vi phạm các nguyên tắc và quy phạm của Hiến pháp”13. Theo quan điểm
này, giám sát Hiến pháp đƣợc hiểu theo nghĩa rộng đồng thời tƣơng đồng về nghĩa với
thuật ngữ đảm bảo thi hành Hiến pháp. Lúc này, giám sát Hiến pháp có nội hàm gồm
tổng hợp các cơ chế nhằm bảo đảm tôn trọng Hiến pháp nhƣ cơ chế chính trị, cơ chế
pháp lý, cơ chế xã hội. Tuy nhiên, có thể thấy nội hàm đƣợc hiểu nhƣ vậy quá rộng trên
thực tế áp dụng thuật ngữ giám sát Hiến pháp trên thế giới hiện nay - Giám sát Hiến
pháp đƣợc tiến hành chỉ khi có sự vi phạm Hiến pháp của cơng quyền. Nhƣ vậy, giám
sát Hiến pháp đƣợc vận hành khi đáp ứng có hai điều kiện: thứ nhất, có hành vi vi
phạm Hiến pháp xảy ra trên thực tế; thứ hai, hành vi vi phạm này của công quyền, đối
tƣợng giám sát Hiến pháp chính là cơng quyền.
Nhóm quan điểm còn lại cho rằng giám sát Hiến pháp “là hoạt động của chủ
thể có thẩm quyền ra phán quyết về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến của văn bản luật,
qua đó làm phát sinh hệ quả pháp lý vơ hiệu hóa văn bản pháp luật vi hiến”14. Ý nghĩa
giám sát Hiến pháp theo quan điểm này khá chật hẹp: chỉ kiểm sốt tính hợp hiến của
các đạo luật. Thực tiễn giám sát Hiến pháp cũng đã chứng minh các định chế giám sát
Hiến pháp ra đời không chỉ để thực hiện xem xét tính hợp hiến hay bất hợp hiến của

đạo luật mà còn thực hiện nhiều chức năng khác nhƣ giải quyết tranh chấp giữa các cơ
quan quyền lực nhà nƣớc ở trung ƣơng, giữa cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở trung ƣơng
và địa phƣơng; xem xét tính hợp hiến của cuộc bầu cử nguyên thủ quốc gia…(chẳng
hạn Tòa án Hiến pháp của các quốc gia châu Âu).

12

Hoàng Phê (chủ biên)(2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội, tr 391.
Đặng Văn Chiến (chủ biên)(2005), Cơ chế bảo hiến, NXB Tƣ pháp, Hà Nội, tr.17.
14
Hồ Đức Anh(2006), “Bảo vệ Hiến pháp và chủ thể bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam”, Dân chủ và pháp luật, (06),
tr.32.
13

Trang 7


Ngày nay, dựa vào thẩm quyền của giám sát Hiến pháp, có thể thấy giám sát
Hiến pháp ngày nay khơng đƣợc sử dụng theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, cũng ra thoát
khỏi sự chật hẹp trong nội hàm nghĩa hẹp. Giám sát Hiến pháp thực hiện nhiều chức
năng khác để bảo vệ nội dung và tinh thần Hiến pháp mà không chỉ dừng lại ở xem xét
tính hợp hiến của đạo luật. Nhƣng, “ý nghĩa cốt lõi của giám sát Hiến pháp vẫn là
kiểm sốt tính hợp hiến trong hành vi lập pháp”15.
Cần phân biệt giám sát Hiến pháp và đảm bảo thi hành Hiến pháp. Đảm bảo thi
hành Hiến pháp ra đời từ tƣ duy của pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm triển khai, thực tế
hóa các quy định của Hiến pháp qua tuyên truyền, giáo dục…Còn giám sát Hiến pháp
lại là sản phẩm của pháp quyền, với mục tiêu xử lý các vi phạm của công quyền khi
thực thi Hiến pháp, hƣớng tới giám sát quyền lực nhà nƣớc để bảo vệ các quyền và tự
do của con ngƣời.
1.2.2. Vai trò của giám sát Hiến pháp trong xây dựng nhà nƣớc pháp

quyền.
Một bản Hiến pháp dù cổ điển hay hiện đại đều xác nhận chủ quyền chính trị tối
cao của nhân dân. Còn bản thân nhà nƣớc pháp quyền hoạt động trong khn khổ pháp
luật mà vị trí tối cao trong hệ thống pháp luật - Hiến pháp. Nghĩa là một bản Hiến pháp
phù hợp đƣợc xem nhƣ cơ chế vận hành, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và duy trì trật
tự xã hội trong nhà nƣớc pháp quyền. Tuy nhiên, “theo Kant nhà nước là tập hợp
những con người cùng phục tùng các đạo luật pháp quyền”16. Mà con ngƣời không
phải lúc nào cũng làm đúng. Điều này xảy ra những tình huống:
Một là, các thiết chế quyền lực có thể khơng xác định đúng phạm vi thẩm quyền
của mình dẫn đến tình trạng tranh chấp trong thực hiện quyền lực, dễ dẫn đến lạm
quyền.
Hai là, các cơ quan ban hành khi thực thi quyền lực qua áp dụng pháp luật đã
vƣợt quá thẩm quyền với các biểu hiện nhƣ ban hành các văn bản, quyết định trái với
Hiến pháp, pháp luật.
15

Xem thêm Vũ Văn Nhiêm-Nguyễn Mạnh Hùng-Lƣu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp – với việc
bảo đảm quyền con người, NXB Giáo dục Việt Nam, TP. HCM, tr.26.
16
Phạm Gia Đức (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, NXB Quân
đội, Hà Nội, tr.296.

Trang 8


Ba là, những đạo luật, hành vi ra đời gây tổn hại cho đời sống xã hội, xâm phạm
các quyền con ngƣời hiến định.
Trước tiên, giám sát Hiến pháp đƣợc trao cho thẩm quyền đầu tiên để giải quyết
các tình huống trên: giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của chính quyền
trung ƣơng – địa phƣơng, đặc biệt liên quan đến việc thực thi pháp luật của trung ƣơng

hay liên quan đến hoạt động giám sát chính quyền địa phƣơng; tranh chấp khác theo
luật cơng giữa chính quyền trung ƣơng và địa phƣơng hoặc giữa chính quyền địa
phƣơng với nhau cũng nhƣ trong nội bộ chính quyền địa phƣơng.
Thứ hai, giám sát Hiến pháp có vai trị trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân. Khởi nguồn từ quyền khiếu nại Hiến pháp mà giám sát Hiến pháp trở thành
công cụ cho công dân thực hiện quyền của mình. Có thể xem quy định tại Hiến pháp
Liên bang Đức là một ví dụ cho việc này. “Mọi ngƣời đều có thể khiếu nại tại Tịa án
Hiến pháp Liên bang khi họ cho rằng quyền cơ bản của họ hay các quyền tƣơng tự nhƣ
quyền cơ bản bị vi phạm bởi một văn bản hay quyết định của chính quyền nhà nƣớc”.
Ở góc độ này, quyền cơ bản hay tƣơng tự cơ bản của công dân dƣới hoạt động của tài
phán Hiến pháp mới đảm bảo đƣợc thực thi thực thi, trên cơ sở hợp hiến của pháp luật
hiện hành chứ không là những tuyên ngôn, lý thuyết mà nhà nƣớc mong muốn hƣớng
tới, tuy nhiên vì nhiều lý do mà chƣa thực hiện đƣợc.
Thứ ba, chức năng đƣợc nói tới là chức năng giáo dục. Giáo dục với cả công
dân – ngƣời khiếu nại, với cả cơ quan nhà nƣớc đƣa ra văn bản hoặc có hành vi vi hiến.
Bản thân cơng dân, khiếu nại Hiến pháp giúp họ tự chủ đƣợc việc bảo vệ quyền của
mình trƣớc sự xâm phạm của cơ quan nhà nƣớc. Với cơ quan đã đƣa ra văn bản, có
hành vi vi hiến, giám sát Hiến pháp tác động đến tồn bộ xử sự của hệ thống cơng
quyền, khơng áp dụng văn bản, hành vi vi hiến cho trƣờng hợp tƣơng tự, cũng nhƣ tạo
ra cơ hội mới cho cái nhìn về quy định của Hiến pháp. Khi khơng có chức năng giám
sát Hiến pháp, cơ quan công quyền mặc nhiên xem họ đúng, do đó, cái nhìn chƣa đúng
về Hiến pháp đƣợc duy trì, tiếp tục trong hiện tại và tƣơng lai.
Ngồi ra, giám sát Hiến pháp cịn thêm chức năng giải thích Hiến pháp, giải
quyết các tranh chấp về bầu cử và trƣng cầu dân ý. Hiến pháp ra đời trên ý chí của
nhân dân, hoặc đại diện của nhân dân. Tuy nhiên, không phải lúc nào nội dung của
Hiến pháp cũng có thể đƣợc áp dụng trực tiếp, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội thay
Trang 9


đổi khơng ngừng, cịn Hiến pháp tĩnh tƣơng đối, ổn định lâu dài, nên thƣờng có tính

trừu tƣợng. Cơ quan nhà nƣớc bằng việc ban hành luật, văn bản dƣới luật để cụ thể
hóa, thực thi các quy định của Hiến pháp khó tránh khỏi hiện tƣợng xung đột thẩm
quyền hay vƣợt quá tinh thần, nội dung Hiến pháp quy định. Nên nhu cầu giải thích
Hiến pháp đƣợc đặt ra. Lời giải thích của cơ quan giám sát Hiến pháp đƣợc xem nhƣ
trọng tài trong trƣờng hợp mâu thuẫn xảy ra giữa các cơ quan nhà nƣớc, các văn bản
pháp luật trong q trình đời sống hóa Hiến pháp.
Những chức năng này có đƣợc bởi sự đặc biệt của cơ quan giám sát nhƣ: cách
thức thành lập, tổ chức, tố tụng, sự tác động đến các cơ quan khác. Giám sát Hiến pháp
theo xu hƣớng hiện đại đƣợc giao cho cơ quan tƣ pháp. Lịch sử hình thành cơ quan tƣ
pháp đã khẳng định sự độc lập của nhánh quyền lực này, khơng mang tính chính trị
nhƣ lập pháp và hành pháp, phán quyết của tƣ pháp chỉ dựa trên pháp luật, cơng lý, lẽ
phải. Ngồi ra, dù q trình để một công dân trở thành thẩm phán ở các quốc gia là
khác nhau, nhƣng điểm chung đều rất phức tạp và khó khăn. Vậy nên, khi trở thành
thẩm phán, họ có đủ trình độ chun mơn, kinh nghiệm cũng nhƣ bản lĩnh để đƣa ra
phán quyết đúng đắn nhất.
Đây là chức năng phổ biến của các mơ hình giám sát trên thế giới, bao gồm các
quyền:
-

-

Tuyên bố về sự không hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khi chúng có nội dung khơng đúng với quy định của Hiến pháp.
(Từ năm 1787 đến năm 1973, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã tuyên bố 122 đạo
luật của Nghị viện Hoa Kỳ là vi hiến (trong tổng số hơn 35.000 đạo luật ban
hành), cũng trong thời gian đó, gần 950 đạo luật của Quốc hội các bang bị
Tòa án tối cao tuyên bố vi phạm Hiến pháp Liên bang17).
Giải quyết các tranh chấp liên quan đến hiệu lực, việc áp dụng và giải thích
Hiến pháp.
Quyết định về tính hợp hiến của cuộc bầu cử Tổng thống.

Xem xét và quyết định về tính hợp hiến của các cuộc bầu cử vào cơ quan lập
pháp, tính hợp hiến của việc tiến hành và kết quả cuộc trƣng cầu dân ý.

17

Tham khảo Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp và các văn bản pháp luật. NXB Tiến bộ, Maxcova, 1973, tr
15. (Dẫn lại từ Nguyễn Nhƣ Phát (2011), Tài phán Hiến pháp - một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc
tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 413).

Trang 10


(21.8.2012, Tòa án Hiến pháp Rumani đã ra quyết định không công nhận kết
quả cuộc trƣng cầu ý dân về luận tội Tổng thống Traian Baxexcu (Traian
Basescu) do tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu không vƣợt mức quá bán (50%+1) để có
giá trị theo luật định)18.
-

Quyết định về vấn đề cách chức quan chức nhà nƣớc đặc biệt. (Với phán
quyết khẳng định việc thuyên chuyển cán bộ năm 2011 của Thủ tƣớng
Yingluck Shinawatra là vi hiến, Tòa án Hiến pháp Thái Lan ngày 7-5-2014
phế truất cƣơng vị của nữ thủ tƣớng nƣớc này)19.

-

Quyết định sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.

Chung quy lại, chúng ta cần một cơ quan giám sát Hiến pháp để bảo vệ tính tối
cao của Hiến pháp tránh khỏi sự tùy tiện, nguyên thủy hóa thẩm quyền của các thiết
chế, bảo hộ quyền tự do của công dân – nội dung cốt lõi của một bản Hiến pháp. Vậy

nên với vai trị là cơng cụ duy trì, bảo vệ chế độ nhà nƣớc pháp quyền và nền dân chủ,
giám sát Hiến pháp trƣớc hết có nhiệm vụ thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các văn
bản, hành vi của thiết chế quyền lực về tính hợp hiến của nó trên cơ sở làm sáng tỏ tinh
thần Hiến pháp, phân tích nội dung, ý chí và mục đích của luật để từ đó đƣa ra phán
quyết. Giám sát Hiến pháp ra đời để “đảm bảo tính hợp hiến của mọi quyền lực nhà
nước và của các hành vi xã hội”20.
1.3. Cơ chế giám sát Hiến pháp
1.3.1. Khái niệm cơ chế giám sát Hiến pháp
Cơ chế giám sát Hiến pháp là hệ thống những thành tố, hình thức, thiết chế, thủ
tục mà qua đó Hiến pháp đƣợc bảo vệ. Cơ chế giám sát Hiến pháp thực chất là công cụ,
phƣơng thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nƣớc nhằm đảm bảo quyền lực đó
thuộc về nhân dân.
Cơ chế giám sát Hiến pháp hình thành nên từ cơ sở một Hiến pháp cƣơng tính.
Một Hiến pháp khơng bị thay đổi bởi chủ thể thông thƣờng, thủ tục thông thƣờng, bởi
18

(ngày truy cập
24.5.2014)
19
(ngày truy cập 17.6.2014)
20
Nguyễn Nhƣ Phát (2011) Tài phán Hiến pháp - một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng
áp dụng cho Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 144.

Trang 11


đạo luật thƣờng ngƣời ta mới đặt ra vấn đề giám sát Hiến pháp. Ở các quốc gia khơng
có sự phân biệt giữa Hiến pháp và đạo luật thƣờng thì khơng có sự mâu thuẫn với nhau.
Khi mà đạo luật thƣờng có thể sửa đổi đƣợc nội dung Hiến pháp, vị trí của Hiến pháp

khơng đƣợc đề cao, khơng chiếm ƣu thế trƣớc luật thƣờng, đồng nghĩa việc không thể
dùng Hiến pháp để hạn chế quyền lực nhà nƣớc thì giám sát Hiến pháp trở nên vô
nghĩa trong chế độ Hiến pháp nhu tính.
1.3.2. Những yếu tố cơ bản trong giám sát Hiến pháp
Giám sát Hiến pháp gồm nhiều nội dung. Trong đó hai yếu tố chủ thể thực hiện
giám sát Hiến pháp và đối tƣợng của giám sát Hiến pháp giữa vai trị vơ cùng quan
trọng. Xác định đúng đắn chủ thể thực hiện và đối tƣợng của giám sát Hiến pháp là cơ
sở để định hƣớng phát triển mơ hình giám sát Hiến pháp phù hợp. Bởi lẽ khi nắm rõ
hai yếu tố này nhà cầm quyền có thể hoạch định để xây dựng nền tảng chính trị, pháp
lý, tâm lý xã hội, cũng nhƣ các yếu tố về mặt kỹ thuật để mơ hình giám sát Hiến pháp
ra đời mang lại hiệu quả cao nhất.
Chủ thể thực hiện giám sát Hiến pháp
Chủ thể giám sát Hiến pháp có sự thay đổi từ thời kì đầu của nền lập hiến đến
nay. Buổi đầu lập hiến, ngƣời ta quan niệm cơ quan dân cử là chủ thể hợp lý cũng nhƣ
thuận lợi nhất để thực hiện chức năng này. Bởi lẽ, Hiến pháp ra đời là kết quả của quá
trình đấu tranh dân chủ. Cơ quan dân cử đại diện cho ý chí nhân dân nên về mặt thẩm
quyền nó cũng là cơ quan có nhiều quyền lực nhất, có thể kiểm sốt đƣợc sự vi phạm
của nhánh hành pháp. Là cơ quan thành lập ra Hiến pháp, nên có điều kiện để giải thích
Hiến pháp, nhận thấy đƣợc khi nào là vi hiến, khi nào là hợp hiến của các đạo luật, các
hành vi. Ngoài ra, một nhận thức cổ điển nữa, bản thân cơ quan dân cử hình thành nên
Hiến pháp nên sẽ tạo ra một quyết tâm cao để bảo vệ tính tối cao của đạo luật đặc biệt
này. Mới nhìn, có thể thấy lập luận này rất ổn, hợp lý. Tuy nhiên, quan niệm này đã trở
nên không phù hợp.
Lý luận Hiến pháp học phân tích rằng cơ quan chính trị có khuynh hƣớng xem
xét vấn đề trên khía cạnh chính trị hơn là pháp lý. Mà kiểm sốt tính hợp hiến là một
hành vi mang tính pháp lý chứ khơng là hành vi chính trị. “Một cơ quan chính trị, kiểm
sốt dễ sai lạc vì cơ quan này nghĩ đến nhiều đến lợi ích của đạo luật, tính cách hợp
Trang 12



thời của nó, cũng như giá trị thực tiễn của nó”21. Trao chức năng giám sát cho tƣ pháp
hợp lý hơn bởi tính chất đặc biệt của nó hơn hai nhánh quyền lực cịn lại, độc lập và có
chun mơn pháp lý cao.
Mặt khác, lập pháp và hành pháp một nhánh giữ quyền quy định xử sự xã hội,
một bên triển khai pháp luật vào đời sống. Vì điều này nên có thể khẳng định khả năng
lạm quyền của hai nhánh quyền lực trên. Trong khi đó, Tịa án qua mơ tả của
Hamilton: “Ngành tư pháp, trái lại khơng có quyền sử dụng vũ lực hoặc kiểm sốt tài
chính, khơng có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, và cũng khơng có một
quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói được rằng ngành tư pháp vừa khơng có
lực lượng lại vừa khơng có ý chí, chỉ có trí phán đốn mà thơi, và cần phải dựa trên sự
trợ tá của ngành hành pháp mới có thể thi hành được phán quyết của trí phán đốn
mình”. Nhánh tƣ pháp khơng thể đủ điều kiện để lạm quyền. Ngồi ra, thiết kế của Tịa
án độc lập tƣơng đối với hai nhánh quyền lực, chức năng là phán xét các hành vi để
duy trì sự thống lĩnh của pháp luật trong đời sống.
Chính vì vậy mà khi thành lập cơ quan giám sát Hiến pháp, các quốc gia có xu
hƣớng trao quyền này cho nhánh tƣ pháp hoặc ít nhất là phƣơng thức tổ chức, thực hiện
của cơ quan giám sát độc lập với nhánh lập pháp và hành pháp.
Đối tượng xem xét
Đối tƣợng đƣợc xem xét trong giám sát Hiến pháp bao gồm:

-

Các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn Hiến pháp: luật, văn bản dƣới luật,
các bản án, quyết định của nhánh tƣ pháp.
Văn bản hành chính của các tổ chức chính trị đƣợc nhà nƣớc trao quyền
quản lý.
Điều ƣớc quốc tế theo quy định của pháp luật quốc gia.

-


Hành vi vi phạm Hiến pháp của các cá nhân có thẩm quyền.

-

Tùy thuộc vào mơ hình giám sát Hiến pháp, phƣơng pháp tổ chức quyền lực,
mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực với nhau, mà đối tƣợng xem xét có thể là một,
một số hoặc tất cả các đối tƣợng trên.
21

Xem thêm Vũ Văn Nhiêm-Nguyễn Mạnh Hùng-Lƣu Đức Quang (2012), Cơ chế giám sát Hiến pháp – với việc
bảo đảm quyền con người,Nxb Giáo dục Việt Nam, TP. HCM, tr.26.

Trang 13


Khi thực hiện hoạt động giám sát Hiến pháp, đối tƣợng đƣợc xem xét trƣớc tiên
là các đạo luật, các văn bản ban hành. Bởi lẽ đạo luật là cơ sở khuôn mẫu cho xử sự xã
hội, trong nhà nƣớc pháp quyền, thƣợng tôn pháp luật mà tối cao là Hiến pháp nên đối
tƣợng chủ yếu, quan trọng nhất khi giám sát Hiến pháp là các đạo luật.
1.3.3. Hình thức giám sát Hiến pháp và việc xử lý các trƣờng hợp vi phạm
Hiến pháp
1.3.3.1. Hình thức giám sát Hiến pháp
Có hai hình thức giám sát Hiến pháp: Giám sát trừu tƣợng và giám sát cụ thể.
Giám sát trừu tƣợng là hoạt động kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản luật mà không
gắn liền với một vụ việc cụ thể. Giám sát trừu tƣợng là phƣơng thức gắn liền với giám
sát trƣớc (nghĩa là hoạt động kiểm tra tính hợp hiến của luật trƣớc khi thơng qua, có
hiệu lực). Giám sát trƣớc xảy ra khi có một trong các chủ thể có thẩm quyền đề nghị
xem xét. Thơng thƣờng các nƣớc giới hạn chủ thể này là tổng thống, chủ tịch hai viện,
hoặc một số lƣợng nghị sĩ nhất định mới có quyền đề nghị Tịa án Hiến pháp xem xét.
Tuy nhiên, cũng có một số nƣớc khơng giới hạn chủ thể có quyền này. (Ví dụ cơng dân

Hungary theo Điều 32A Hiến pháp Hungary). Phán quyết của phƣơng pháp trừu tƣợng
hƣớng đến chính phủ vì khơng gắn liền một vụ việc nên pháp quyết không tác động
đến ngƣời yêu cầu.
Hình thức giám sát cụ thể gắn liền với một vụ việc cụ thể, địi hỏi của hình thức
giám sát này đó là việc đƣa ra pháp quyết về tính hợp hiến mới có thể giải quyết đƣợc
vụ việc. Do đó có thể thấy, giám sát cụ thể đa số gặp ở giám sát sau, khi đạo luật đã có
hiệu lực trong đời sống và đã tác động đến quyền lợi của công dân. Chủ thể thực hiện
quyền này thƣờng là pháp nhân và thể nhân – những chủ thể đã trực tiếp chịu tác động
của đạo luật đó.
1.3.3.2. Kết quả xử lý
Kết quả pháp lý của quá trình giám sát Hiến pháp là kết quả nhận đƣợc của một
quá trình giải quyết. Đạo luật, hành vi bị xem xét có thể chịu một trong những hậu quả:

Trang 14


-

Nghị viện (Quốc hội) hoặc cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản để đình

-

chỉ, bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đƣợc coi là vi hiến (Mơ hình cơ quan dân cử thực
hiện chức năng giám sát)
Cơ quan giám sát tun bố đạo luật khơng có giá trị pháp lý, nghĩa là khơng
đƣợc áp dụng trên thực tế, cịn việc sửa đổi, hay bãi bỏ đạo luật do Nghị viện
quyết định. (Mơ hình giám sát của Hoa Kỳ)

-


Cơ quan giám sát Hiến pháp tuyên bố đạo luật, hành vi là vi hiến (Mơ hình
tài phán của Anh, Đức)

1.3.4. Các mơ hình giám sát Hiến pháp trên thế giới. Ƣu và nhƣợc điểm
1.3.4.1. Mơ hình giám sát Hiến pháp phi tập trung
Lịch sử hình thành
Với lý thuyết Hiến pháp tối cao, tại hội nghị lập hiến Philadenphia 1787, những
đại biểu thông thái nhƣ Jame Madison, George Mason, James Wilson, Gouverneur
Moris, Hugh Williamson, Luther Martin và Rufus King đã nhận thấy đƣợc vai trò của
nhánh tƣ pháp trong việc giới hạn quyền lực của nhánh hành pháp, nêu ý kiến về việc
hình thành chế độ tài phán Hiến pháp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên các đại biểu trên đã
không thuyết phục đƣợc hội đồng. Do vậy, quyền giám sát của Tòa án đối không đƣợc
ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ và các tu chính sau đó.
Trong hệ thống Common Law, án lệ đóng vai trị trong việc tạo ra luật, bổ khuyết
cho những quy định của luật thành văn. Điều này lại đƣợc khẳng định một lần nữa vào
năm 1803. Khi ấy, Chánh án Tòa án tối cao Liên bang là John Marshall tạo ra án lệ về
việc Tòa án tối cao Liên bang tuyên bố một đạo luật của Nghị viện là vi hiến cũng nhƣ
xác lập nên học thuyết về tài phán Hiến pháp Hoa kỳ. Nội dung phán quyết có thể tóm
tắt nhƣ sau: Hiến pháp là tối cao, bởi vậy nên đạo luật thƣờng trái với Hiến pháp thì bị
coi là vơ hiệu. Hình thành ngun tắc là tất cả các luật và hoạt động của chính quyền
phải phù hợp với Hiến pháp, bất cứ cá nhân nào tin là các quyền hiến định của mình
đang bị vi phạm bởi bất cứ cấp chính quyền nào – Liên bang, bang hay địa phƣơng đều có thể đƣợc phân xử theo trình tự tố tụng thích hợp. Chính phán quyết của ơng đã
tạo nên một cơ chế giám sát Hiến pháp đặc biệt. Mơ hình giám sát phi tập trung –
Thẩm quyền thuộc về hệ thống Tòa án thƣờng.

Trang 15


Theo gƣơng Hoa Kỳ, các nƣớc Brazil (1891), Uruguay (1917) lần lƣợt xác lập
quyền bảo hiến của toà án.

Ở châu Âu, trƣớc chiến tranh thế giới thứ hai, theo mô hình của Hoa Kỳ, các
nƣớc nhƣ Na Uy, Hy Lạp và một số bang của Thuỵ Sĩ cũng thiết lập quyền giám sát
Hiến pháp của toà án.
Chủ thể giám sát
Chủ thể giám sát của mơ hình này có hai dạng. Một số nƣớc nhƣ Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Philippin và các nƣớc Bắc Âu bất kì Tịa án nào cũng có thẩm quyền giám sát.
Dạng khác thì chỉ các tịa cấp cao nhất nhƣ tòa tối cao, hoặc tòa tối cao của bang mới
có thẩm quyền giám sát Hiến pháp. Tuy nhiên, vì phƣơng thức tổ chức nên phán quyết
của Tịa án tối cao có giá trị pháp lý cao nhất, mang tính chất chung thẩm.
Mơ hình giám sát Hiến pháp phi tập trung là mơ hình giao việc giám sát Hiến
pháp cho Tòa án trên cơ sở kiềm chế đối trọng trong mối quan hệ giữa tƣ pháp – hành
pháp và lập pháp. Vì vậy, mơ hình này chỉ áp dụng hiệu quả ở những nƣớc phân quyền
mạnh mẽ, thực hiện triệt để quan điểm đảm bảo sự độc lập của ngành tƣ pháp đối với
lập pháp, hành pháp. Charles De Secondat Mongtesquieu, từng viết: “Sẽ khơng có tự
do nếu quyền tư pháp không tách biệt khỏi ngành lập pháp và hành pháp”22. Mặt khác,
án lệ cũng là một lợi thế nếu áp dụng mơ hình này. Bởi phán quyết của Tịa án có giá
trị chung theo chiều ngang, và chiều dọc đối với Tòa án tối cao, nên việc tun đạo luật
khơng có giá trị pháp lý sẽ dẫn đến kết quả, đạo luật đó mất giá trị pháp lý trên phạm vi
cả nƣớc và sau này.
Phương pháp giám sát
Phƣơng pháp của mơ hình bảo hiến phi tập trung là giám sát cụ thể. Việc kiểm
tra tính hợp hiến của đạo luật bắt đầu khi Tòa án giải quyết vụ việc nhận thấy cần phải
xem xét tính hợp hiến của đạo luật trƣớc khi giải quyết đúng đắn vụ án.
Đặc điểm mơ hình
Mơ hình bảo hiến phi tập trung có thể đƣợc mơ tả bởi những đặc điểm:
22

Mongtesquieu Charles De Secondat(1996) Tinh thần pháp luật (De L.Esprit de lois), NXB Giáo dục, Trƣờng
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Khoa luật, Hà Nội, tr.101.


Trang 16


-

Các Tịa án có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đây là đặc
điểm rõ ràng nhất để phân biệt mơ hình bảo hiến tập trung hay phi tập trung.
Nếu nhƣ ở mơ hình tập trung, xem xét tính hợp hiến của hành vi, văn bản
đƣợc giao cho một cơ quan duy nhất, cơ quan này cũng chỉ thực hiện chức
năng giám sát Hiến pháp thì ở mơ hình phi tập trung lại khơng có cơ quan
nào chun thực hiện vấn đề này. Có thể phân tích mơ hình của Hoa Kỳ,

-

việc giám sát Hiến pháp thuộc về thẩm quyền của tồn hệ thống Tịa án.
Quyền bảo hiến gắn với một vụ việc cụ thể.
Tòa án chỉ tuyên bố một đạo luật là vi hiến khi nó trái ngƣợc một cách hoàn
toàn với Hiến pháp, và việc xem xét tình hợp hiến là điều kiện để giải quyết,
nghĩa là nếu thẩm pháp khơng xem xét tính hợp hiến của đạo luật mà vẫn có
thể giải quyết vụ việc làm hài lịng các đƣơng sự thì thẩm phán không đƣợc
tuyên đạo luật vi hiến. Điều này nhƣ một sự tôn trọng đối với sản phẩm của
cơ quan lập pháp.

-

-

-

Khi một đạo luật bị tuyên là vi hiến thì khơng cịn giá trị áp dụng. Phán

quyết của tịa khơng dùng để bãi bỏ hay sửa đổi đạo luật nhƣng vì tính chất
vi hiến đồng nghĩa vơ hiệu nêu phán quyết tuyên vi hiến sẽ làm đạo luật mất
giá trị áp dụng trên thực tế dù cho không bị nghị viện hủy bỏ hay sửa đổi.
Phán quyết về tính hợp hiến của đạo luật thơng thƣờng chỉ có giá trị với các
bên tham gia, nếu nó là tiền lệ đƣợc xem là ngoại lệ, có giá trị chung. Xuất
phát từ phƣơng pháp giám sát là giám sát cụ thể, nên phán quyết đƣa ra
nhằm mục đích giải quyết vụ việc nên trƣớc tiên có giá trị với đƣơng sự. Nếu
nó khơng phải là tiền lệ thì sẽ khơng có giá trị bắt buộc các tòa khác tuân
theo mà chỉ nằm ở chừng mực tham khảo cho các thẩm phán khi xảy ra vụ
việc tƣơng tự về mặt tình tiết.
Phán quyết của Tịa án về tính hợp hiến của đạo luật khơng có hiệu lực
chung thẩm mà có thể bị xem xét lại bởi Tịa án cấp trên. Vì hệ thống Tòa án
gồm nhiều thứ bậc, đứng đầu là Tòa án tối cao. Chỉ có phán quyết của Tịa
án tối cao mới có giá trị chung thẩm, bắt buộc thi hành chung trên toàn lãnh
thổ.

Trang 17


×