BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
NGUYỄN THỊ BẢO YÊN
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA VIỆT NAM
TỪ KINH NGHIỆM CƠ CHẾ BẢO HIẾN
CỦA LIÊN BANG MỸ VÀ CỘNG HỊA PHÁP
Niên khóa: 2011 - 2015
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
NGUYỄN THỊ BẢO YÊN
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA VIỆT NAM
TỪ KINH NGHIỆM CƠ CHẾ BẢO HIẾN
CỦA LIÊN BANG MỸ VÀ CỘNG HỊA PHÁP
Niên khóa: 2011 - 2015
Người hướng dẫn:
ThS. NGUYỄN THỊ HẰNG
GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT QUỐC TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp này, người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Hằng - Thạc sĩ - Giảng viên khoa Luật Quốc tế đã
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ người viết với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt
quá trình triển khai, nghiên cứu và hồn thành đề tài: “Hồn thiện có chế bảo hiến của
Việt Nam từ kinh nghiệm cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ và Cộng hòa Pháp”.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô ở trường Đại học Luật TP.HCM đã tận
tình truyền đạt những kiến thức trong những năm tác giả học tập, tạo nền tảng cho quá
trình nghiên cứu khóa luận.
Người viết xin ghi nhận cơng sức đóng góp q báu và nhiệt tình của các bạn
trong lớp đã đóng góp ý kiến, hỗ trợ tìm kiếm tài liệu có giá trị để tác giả có thêm
nguồn thơng tin hồn thành Khóa luận. Đặc biệt là sự quan tâm, thơng cảm sâu sắc của
gia đình.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Bảo Yên
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là Khóa luận do bản thân tôi thực hiện và không sao
chép từ các cơng trình nghiên cứu khác. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn chưa được cơng bố ở các nghiên cứu khác. Tôi xin cam đoan các thông
tin trong khóa luận đề được chỉ rõ nguồn gốc và được trích dẫn cụ thể.
Tơi xin chịu trách nhiệm về các nghiên cứu của mình.
Người viết
Nguyễn Thị Bảo Yên
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: SO SÁNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA LIÊN BANG MỸ, CỘNG
HÒA PHÁP VÀ VIỆT NAM. ........................................................................................ 7
1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiến ....................................................... 7
1.1.1 Lịch sử hình thành hoạt động bảo hiến ...................................................... 7
1.1.2 Khái niệm bảo hiến (bảo vệ Hiến pháp) .................................................... 8
1.1.3 Các mơ hình bảo hiến phổ biến trên thế giới .............................................. 9
1.2 So sánh chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên
bang Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt Nam.................................................................. 11
1.2.1 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ 11
1.2.2 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Cộng hịa Pháp
...................................................................................................................... 12
1.2.3 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Việt Nam ...... 14
1.3 So sánh thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ,
Cộng hòa Pháp và Việt Nam ................................................................................... 17
1.3.1 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ................ 17
1.3.2 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Cộng hòa Pháp .............. 18
1.3.3 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Việt Nam ...................... 20
1.4 So sánh trình tự thủ tục trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng
hòa Pháp và Việt Nam ............................................................................................. 24
1.4.1 Trình tự thủ tục trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ......................... 24
1.4.2 Trình tự thủ tục trong cơ chế bảo hiến của Cộng hòa Pháp ....................... 25
1.4.3 Trình tự thủ tục trong cơ chế bảo hiến của Việt Nam ............................... 26
1.5 So sánh thời điểm, hình thức và hậu quả của hoạt động bảo hiến trong cơ
chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt Nam. .......................... 27
1.5.1 Thời điểm, hình thức, hậu quả hoạt động bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của
Liên bang Mỹ ................................................................................................. 27
1.5.2 Thời điểm, hình thức, hậu quả của hoạt động bảo hiến trong cơ chế bảo hiến
của Cộng hòa Pháp ......................................................................................... 28
2
1.5.3 Thời điểm, hình thức, hậu quả của hoạt động bảo hiến trong cơ chế bảo hiến
của Việt Nam ................................................................................................. 30
CHƯƠNG 2: NHU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA VIỆT NAM. ........................................ 33
2.1 Nhu cầu hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cơ chế bảo hiến ...................... 33
2.1.1 Đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.......... 33
2.1.2 Khắc phục những hạn chế của cơ chế bảo hiến khi chưa có một cơ quan bảo
hiến chuyên trách ........................................................................................... 35
2.2 Nguyên tắc và định hướng trong việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt
Nam .......................................................................................................................... 38
2.2.1 Nguyên tắc trong việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam .............. 38
2.2.2 Định hướng trong việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam ............. 41
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam ............ 44
2.3.1 Vị trí, tính chất của Tòa án Hiến pháp ..................................................... 45
2.3.2 Cơ cấu tổ chức của Tòa án Hiến pháp ..................................................... 45
2.3.3 Thẩm quyền của Tịa án Hiến pháp ......................................................... 46
2.3.4 Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp, vi phạm Hiến pháp của Tòa án
Hiến pháp ...................................................................................................... 47
2.3.5 Hậu quả pháp lý của các phán quyết của Tòa án Hiến pháp ...................... 50
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 52
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc xây dựng một nhà nước pháp quyền trong đó quyền con người và quyền
cơng dân ln được đặt ở vị trí trung tâm đang là mục tiêu hướng đến của rất nhiều
quốc gia trên thế giới hiện nay. Trước hết, để công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền thành công, vấn đề quan trọng được đặt ra là phải đảm bảo cho Hiến pháp thể
hiện được vị trí tối cao của mình, không bị các đạo luật hay các hành vi xâm hại. Mỗi
quốc gia tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội đặc thù cũng như hệ thống
pháp luật của mình mà thiết lập nên một cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp.
Liên bang Mỹ là quốc gia đầu tiên thiết lập cơ chế bảo hiến, cơ chế này không
căn cứ vào các quy định của Hiến pháp mà từ thực tiễn xét xử của Tòa án tối cao. Tiếp
theo đó, ở Châu Âu cũng hình thành nên cơ chế bảo hiến riêng, khác biệt với cơ chế
bảo hiến kiểu Mỹ, hoạt động bảo hiến không phải do tòa án thực hiện mà là do cơ quan
chuyên trách tiến hành. Đây được xem là hai cơ chế bảo hiến chính, phổ biến trên thế
giới. Về sau, cơ chế bảo hiến cũng bắt đầu tồn tại ở nhiều quốc gia, ngay cả những
nước mới thành lập như Châu Phi, Châu Mỹ La-tinh, các nước Đông Âu.
Ở Việt Nam, cùng với sự ra đời và phát triển của các bản Hiến pháp, cơ chế bảo
hiến cũng được hình thành và khơng ngừng hồn thiện. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận
rằng cơ chế bảo hiến của nước ta vẫn tồn tại hạn chế, chưa phù hợp với những thay đổi
trong điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị hiện nay. Do đó, nghiên cứu đặc điểm của các
cơ chế bảo hiến khác nhau để rút ra những bài học và kinh nghiệm cho việc lựa chọn
cơ chế phù hợp với thực tiễn Việt Nam là yêu cầu mang tính cấp thiết. Theo người viết,
nước ta có thể học hỏi, tiếp thu có chọn lọc từ hai cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ và
Cộng hòa Pháp bởi lẽ đây là hai cơ chế phổ biến nhất trên thế giới.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết chọn đề tài “Hoàn thiện cơ chế bảo
hiến của Việt Nam từ kinh nghiệm cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ và Cộng
hịa Pháp” làm Khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Luật quốc tế. Đây là đề tài có ý
nghĩa về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối với Việt Nam và tác động trực tiếp đến việc bảo
vệ tính tối cao của Hiến pháp, thúc đẩy q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
4
Qua q trình nghiên cứu đề tài khóa luận, người viết đã tiếp cận rất nhiều cơng
trình nghiên cứu khoa học về vấn đề bảo hiến, nổi bật là một số bài báo, tạp chí như:
PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, “Mơ hình cơ quan bảo hiến của các nước trên thế giới”,
Tạp chí luật học số 5, 2004; GS.TS. Lê Minh Tâm, “Bảo hiến, cơ chế bảo hiến và cơ
chế bảo hiến ở Việt Nam”, Tạp chí luật học số 4, 2005; ThS. Nguyễn Mậu Tuân, “Cơ
chế bảo hiến và việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí dân chủ và pháp
luật số 11, 2011. Một số cơng trình khác như: Huỳnh Minh Hiền (2012), So sánh mơ
hình bảo hiến của Việt Nam, Hoa Kỳ và Pháp, Khóa luận tốt nghiệp, TP.HCM; Vũ
Đình Lê (2007), Cơ chế bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam thực trạng và một số kiến nghị
hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, TP.HCM… Bên cạnh đó đã có một số cơng trình được in
dưới dạng sách chuyên khảo bước đầu cung cấp cho người đọc thông tin về cơ giám sát
Hiến pháp của Việt Nam như TS.Vũ Văn Nhiêm (chủ biên), Cơ chế giám sát Hiến
pháp với việc đảm bảo quyền con người, NXB Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Hà
Nội, 2013; Nguyễn Đăng Dung, Trương Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức
Quang, Nguyễn Văn Trí (tập thể phân cơng biên soạn), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp
kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, NXB giáo dục Việt Nam, TP.HCM, 2011; Bùi Ngọc
Sơn, Bảo hiến ở Việt Nam, NXB Tư pháp, 2006. Qua các cơng trình nghiên cứu khoa
học, các tác giả tập trung chủ yếu vào việc phân tích các cơ chế bảo hiến của các nước
trên thế giới, tìm hiểu về thực trạng, hạn chế của cơ chế bảo hiến của Việt Nam và từ
đó đưa ra những kiến nghị về mơ hình bảo hiến mới ở Việt Nam trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, điều này đã tạo nên giá trị khoa học về vấn đề
bảo hiến. Các kết quả nghiên cứu khoa học trên là tiền đề, tạo ra cơ sở lý luận để người
viết tham khảo hồn thành khóa luận của mình. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu
hiện nay cịn bỏ ngỏ một số vấn đề như chưa đưa ra thực trạng cơ chế bảo hiến của
nước ta cũng như chưa kiến nghị cơ chế hoạt động của mơ hình bảo hiến phù hợp (như
thẩm quyền thực hiện hoạt động bảo hiến, trình tự thủ tục, điều kiện, tiêu chuẩn lựa
chọn thẩm phán...).
Bên cạnh các bài báo, bài viết, sách chun khảo về vấn đề bảo hiến trong nước,
cịn có các cơng trình nghiên cứu của các nhà luật học trên thế giới được xuất bản dưới
dạng sách hoặc bài viết, bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Người viết cũng
đã bước đầu tham khảo các cơng trình này, chủ yếu là các bài viết nghiên cứu về lịch
sử hình thành cơ chế bảo hiến trên thế giới, cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ và Cộng
hòa Pháp cùng những đặc trưng cơ bản của nó.
5
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề về cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ,
cơ chế bảo hiến của Cộng hòa Pháp và các quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế
bảo hiến của Việt Nam.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận như sau:
- Trước hết, luận văn tiếp cận từ góc độ lý luận để làm rõ đặc điểm về cơ chế bảo
hiến của Liên bang Mỹ, Cộng hịa Pháp và Việt Nam. Từ đó, so sánh cơ chế bảo hiến
của ba quốc gia này để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt qua các khía cạnh
chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiến; thẩm quyền trong hoạt động bảo hiến; trình tự
thủ tục thực hiện hoạt động bảo hiến; thời điểm, hình thức, hậu quả của hoạt động bảo
hiến.
- Từ kết quả so sánh của ba cơ chế bảo hiến, tạo cơ sở cho những kiến nghị hoàn
thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận, phân tích, đánh giá các cơ chế bảo hiến khác nhau cùng việc
nghiên cứu cơ chế bảo hiến của Việt Nam để nhận thấy những bất cập, hạn chế ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động bảo hiến ở nước ta. Từ đó đưa ra đề xuất sửa đổi, hồn
thiện cơ chế bảo hiến, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiến ở nước ta.
5. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp được sử dụng như: so sánh, tổng hợp, thống kê, phương
pháp lịch sử, phân tích, kết hợp lý luận và thực tiễn… dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp này được sử dụng xuyên suốt khóa
luận và mức độ sử dụng tùy thuộc vào yêu cầu của từng chương.
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
Bước đầu đề tài đã tạo cơ sở về mặt lý luận lẫn thực tiễn khẳng định vị trí và sự
cần thiết của hoạt động bảo hiến. Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm đưa ra giải pháp
khắc phục những hạn chế nhằm hoàn thiện hơn cơ chế bảo hiến ở nước ta. Bên cạnh
6
đó, đề tài làm sáng tỏ hơn các vấn đề mà các cơng trình nghiên cứu trước đây cịn bỏ
ngỏ.
7. Kết cấu của khóa luận:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận bao gồm hai chương:
-
Chương I: So sánh cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt
-
Nam.
Chương II: Hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.
7
CHƯƠNG 1: SO SÁNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA LIÊN BANG MỸ, CỘNG
HÒA PHÁP VÀ VIỆT NAM.
Cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ và Cộng hòa Pháp là hai cơ chế bảo hiến phổ
biến trên thế giới hiện nay, hai cơ chế này đã để lại những kinh nghiệm mà các quốc
gia sau này có thể học hỏi trong việc xây dựng cơ chế bảo hiến phù hợp cho mình,
trong đó có Việt Nam. Sau đây, người viết xin đề cập đến một số điểm khác biệt của cơ
chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt Nam để nhận thấy những ưu,
nhược điểm trong cơ chế bảo hiến của từng quốc gia. Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy
được những hạn chế trong cơ chế bảo hiến của nước ta hiện nay và những kinh nghiệm
cần học hỏi từ Liên bang Mỹ và Cộng hòa Pháp.
1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiến
1.1.1 Lịch sử hình thành hoạt động bảo hiến
Người ta cho rằng tư tưởng về bảo hiến xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu thế
kỷ XVII và gắn liền với hoạt động của Hội đồng tư vấn. Hội đồng này bác bỏ hiệu lực
của các đạo luật do các cơ quan lập pháp thuộc địa ban hành nếu chúng trái với các đạo
luật của Nghị viện Anh hoặc mâu thuẫn với thông luật. Nhưng bảo hiến hiểu theo
nghĩa hiện nay lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ và không phải trên cơ sở hiến pháp mà từ
án lệ. Quan điểm này được Chánh án Toà án Tối cao J. Marshall thể hiện một cách rõ
nhất trong phán quyết về vụ Marbury v. Madison (Marbury kiện Madison) năm 1803:
“Chỉ có tồ án mới có quyền và có nghĩa vụ tuyên bố cái gì được gọi là luật”, “một văn
bản luật trái với Hiến pháp không phải là luật” 1. Tiền lệ này đã đặt nền tảng cho cơ chế
bảo hiến của Liên bang Mỹ về hoạt động bảo hiến với đặc điểm chính là sự giám sát
Hiến pháp do hệ thống cơ quan tư pháp thực hiện. Cơ chế bảo hiến này không dựa trên
cơ sở quy định của Hiến pháp mà dựa trên cơ sở thực tiễn xét xử của tịa án (án lệ).
Sau đó ở Châu Âu cũng đã xuất hiện cơ chế bảo hiến mới, khác biệt với cơ chế
bảo hiến của Mỹ ra đời trước đó, hoạt động bảo hiến khơng phải do tòa án thực hiện
mà là do cơ quan chuyên trách tiến hành. Cơ chế này được xác lập chịu ảnh hưởng về
tư tưởng của hai học giả người Áo là Adams kensel và Adolf Merkl, và được cụ thể
đầu tiên trong Hiến pháp Áo 1920. Tiếp theo nước Áo, nhiều nước trên thế giới cũng
đã hình thành nên cơ chế bảo hiến với cơ quan chuyên trách thực hiện hoạt động bảo
1
“It is emphatically the province and duty of the judicial department to say what the law is. . . .” -“a legislative act contrary to
the constitution is not law”, Marbury v. Madison, 1 Cr. (5 U.S.), 176-177 (1803).
8
hiến như Ý (1948), Ấn Độ và Đức (1949), Síp (1960), Bồ Đào Nha (1976), Hàn Quốc
(1988)… và đến nay đã có hơn 60 quốc gia đã áp dụng cơ chế bảo hiến này. Cơ chế
bảo hiến với cơ quan chuyên trách thực hiện hoạt động bảo hiến đã trở thành một trong
những mơ hình chính trên thế giới hiện nay.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ 2 đến nay, các cơ chế bảo hiến đã lan truyền rộng
rãi và tiếp tục được thiết lập ở khắp nơi trên thế giới, ngay cả những nước mới thành
lập như ở Châu Phi, Châu Mỹ La-tinh, các nước Đông Âu, ở các nước đang phát triển
cơ chế này cũng đã bắt đầu tồn tại. Với nhu cầu xây dựng một nhà nước pháp quyền,
các quốc gia hiện đã quan tâm nhiều hơn đến cơ chế bảo hiến, các quốc gia đã lựa chọn
cho mình mỗi cơ chế bảo hiến phù hợp với điều kiện, hồn cảnh xã hội cụ thể. Từ đó,
trong giai đoạn này, bên cạnh hai cơ chế bảo hiến đã hình thành trước đó, có một vài
quốc gia xây dựng nên cơ chế bảo hiến khác biệt, có những nước xây dựng cơ chế bảo
hiến kết hợp, cũng có những nước xây dựng cơ quan khác không phụ thuộc vào ba
nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp như Hội đồng bảo hiến của Pháp (1958), có
nước giao cho cơ quan lập pháp thực hiện như ở Việt Nam, Trung Quốc 2…
1.1.2 Khái niệm bảo hiến (bảo vệ Hiến pháp)
Hiện nay, ở các nước trên thế giới, chưa có một khái niệm thống nhất về bảo
hiến hay còn gọi là bảo vệ Hiến pháp. Tùy thuộc vào yếu tố chính trị, hình thức cấu
trúc nhà nước cũng như đặc trưng riêng của hệ thống pháp luật của quốc gia mà thuật
ngữ bảo hiến được đề cập với các cách hiểu khác nhau.
Ở Anh, Mỹ và một số nước khác đã đưa ra thuật ngữ “judicial review” với nghĩa
là tài phán tư pháp hoặc kiểm tra tư pháp. Thuật ngữ này được hiểu đây là hoạt động
của các cơ quan tư pháp xem xét, kiểm tra các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành
có phù hợp với quy định của Hiến pháp hay khơng, từ đó đưa ra phán quyết về tính hợp
hiến của các đạo luật. Thuật ngữ “judicial review” ra đời gắn liền với chức năng xem
xét tính hợp hiến của Tịa án và về nội hàm nó cũng có thể hiểu như khái niệm “bảo
hiến”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này cũng khơng có một khái niệm thống nhất. Khái niệm
bảo hiến tại nước ta được tiếp cận dưới hai góc độ sau:
2
Dữ liệu của University of Illinois Comparative Constitutions Project, có tại địa chỉ: netfiles.uiuc.edu/zelkins/constitutions.
9
Theo nghĩa rộng, bảo hiến là toàn bộ những phương tiện, cách thức, biện pháp
đảm bảo cho tính tối cao của Hiến pháp, đảm bảo cho Hiến pháp được tôn trọng, chống
lại các hành vi vi phạm Hiến pháp có khả năng xảy ra trong tương lai. Theo cách hiểu
này thì bảo hiến khơng chỉ là việc xem xét các đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành
mà còn bao gồm một số các hoạt dộng khác như: quyền kiểm sốt tính hợp hiến của
các hành vi, của các chế định chính trị được quy định trong Hiến pháp, giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước với nhau.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền xem xét,
kiểm tra, đánh giá các đạo luật có vi phạm Hiến pháp hay không và sẽ ra quyết định xử
lý nếu như các đạo luật này có dấu hiệu vi hiến.
Từ những cách hiểu trên, quan điểm của người viết cho rằng khái niệm “bảo
hiến” là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá các đạo luật, các văn
bản dưới luật, các hành vi của các cơ quan tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm hiến
pháp hay không.
Các nước trên thế giới tùy thuộc vào đặc điểm riêng của nước mình mà thiết lập
nên một thiết chế được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo cho Hiến pháp được tôn trọng, để từ đó hình thành nên các cơ chế bảo hiến
khác nhau trên thế giới.
1.1.3 Các mơ hình bảo hiến phổ biến trên thế giới
Dựa trên các tiêu chí về tổ chức, thẩm quyền và thủ tục, học giả Arne Mavčič
chia các thiết chế bảo hiến hiện hành trên thế giới thành các mơ hình sau đây3:
- Mơ hình bảo hiến kiểu Mỹ. Đây là mơ hình được hình thành từ thực tiễn xét xử
của Tòa án, thực hiện giám sát chính quyền bằng tư pháp, theo đó tất cả Tịa án đều có
quyền thực hiện hoạt động bảo hiến.
- Hội đồng Hiến pháp của Pháp (Conseil Constitutionnel). Mô hình này hình
thành gắn liền với sự ra đời của Hiến pháp 1958 của Pháp. Đây là mơ hình bảo hiến tập
trung, chủ thể thực thiện hoạt động bảo hiến là một cơ quan chuyên trách (Hội đồng
bảo hiến) và đặc trưng cơ bản nhất của mơ hình này mang tính chất phịng hiến.
3
Xem thêm: Truy cập ngày 5/5/2015.
10
- Tịa án Hiến pháp kiểu Châu Âu: là mơ hình do Kelsen đề xuất năm 1920, được
áp dụng phổ biến ở Châu Âu với những đặc điểm như: bảo hiến “tập trung” và theo
quy trình bảo hiến đặc biệt của Tòa án Hiến pháp; bảo hiến “trừu tượng”, tức là không
xuất phát từ một vụ việc cụ thể, mà được đề xuất bởi những cơ quan nhà nước và người
có thẩm quyền; quyền kiểm tra sau (một số được trao quyền kiểm hiến trước); quyết
định có giá trị bắt buộc 4.
- Ngồi ra, trên thế giới cịn xuất hiện một số mơ hình bảo hiến như: Hội đồng
Hiến pháp kiểu Châu Âu Tòa án hiến pháp kiểu hỗn hợp, Tòa án tối cao kiểu Châu Âu,
Tòa án kiểu hỗn hợp.
Ngồi ra, cịn có cách phân loại khác về các mơ hình bảo hiến trên thế giới căn cứ
vào chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiến. Theo đó, có bốn mơ hình bảo hiến chính
sau 5:
- Mơ hình bảo hiến phi tập trung (Decetrallised Constitutional Control). Liên
bang Mỹ là quốc gia điển hình và cũng là quốc gia thiết lập nên mơ hình bảo hiến này.
Theo đó, tất cả các hệ thống tịa án đều có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo
luật và hoạt động bảo hiến luôn gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể.
- Mơ hình bảo hiến tập trung (Concentrated System). Theo mơ hình này, hoạt
động bảo hiến được thực hiện chủ yếu thơng qua thiết chế Tịa án Hiến pháp hay Hội
đồng bảo hiến, các cơ quan này hoạt động độc lập so với các nhánh quyền lực khác
trong bộ máy nhà nước và chỉ tuân thủ Hiến pháp. Hoạt động bảo hiến không chỉ là
giám sát cụ thể mà còn thực hiện giám sát trừu tượng theo một trình tự thủ tục đặc biệt.
Đây là mơ hình được áp dụng phổ biến ở Châu Âu.
- Mơ hình bảo hiến hỗn hợp. Đây là mơ hình bảo hiến kết hợp các yếu tố của mơ
hình bảo hiến tập trung và phi tập trung. Hoạt động bảo hiến được thực hiện bởi cơ
quan chun trách và Tịa án thường.
- Mơ hình cơ quan lập hiến cũng là cơ quan bảo hiến. Ở một số nước trên thế
giới, không thành lập một cơ quan chuyên trách thực hiện hoạt động bảo hiến, cũng
không giao cho hệ thống tư pháp mà trao cho cơ quan lập hiến (Nghị viện, Quốc hội)
thực hiện bảo hiến.
4
Truy cập ngày
5/5/2015.
5
Vũ Văn Nhiêm, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2013), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc đảm bảo
quyền con người, NXB Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.50.
11
Hầu hết các nước trên thế giới thiết lập một trong các mơ hình bảo hiến trên,
nhưng cũng có một số nước không theo một cơ chế bảo hiến nào. Tuy nhiên, xu hướng
của các nước sẽ dựa vào các đặc điểm về thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, điều
kiện kinh tế - xã hội của nước mình để lựa chọn một cơ chế bảo hiến phù hợp nhất.
1.2 So sánh chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang
Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt Nam.
1.2.1 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ
Với cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, chức năng bảo hiến được giao cho hệ
thống tòa án chung (tòa án tư pháp mà đứng đầu là Tòa án tối cao). Tức là chức năng
bảo hiến không giao cho bất kỳ một cơ quan độc lập nào trong bộ máy nhà nước, cũng
không giao cho cơ quan chuyên trách hay tòa án chuyên trách mà giao cho tất cả hệ
thống các tòa án từ Tòa án các Bang, Tòa án Liên bang và cả Tòa án tối cao của Liên
bang. Chức năng này của tịa án khơng xuất phát từ việc trao quyền rõ ràng trong Hiến
pháp mà thực chất được miêu tả một cách chi tiết trong phán quyết của Tòa án tối cao
trong vụ việc United States chống Butler 1963 như sau: “Hiến pháp là đạo luật tối cao
của đất nước, do nhân dân thông qua. Tất cả đạo luật phải tuân thủ những nguyên tắc
được quy định trong Hiến pháp. Khi một đạo luật của Quốc hội được đệ ra các Tịa án
để xem xét tính hợp hiến, các Tịa án có nhiệm vụ để xem xét các quy định của các đạo
luật đó có phù hợp với Hiến pháp hay khơng. Tất cả các tịa án có thẩm quyền thực
hiện chức năng này” 6.
Bất kỳ tịa án nào cũng có thể phán quyết về tính hợp hiến của văn bản luật, tuy
nhiên, thẩm quyền này chủ yếu do Tịa án tối cao thực hiện vì quyết định của Tịa này
là quyết định cuối cùng và có giá trị bắt buộc đối với các tòa án khác trên tồn lãnh thổ
nước Mỹ.
Tịa án tối cao bao gồm 9 thẩm phán được Tổng thống bổ nhiệm và có sự phê
chuẩn của Thượng nghị viện, trong đó có một thẩm phán được bổ nhiệm làm Chánh án
Tòa án tối cao. Các thẩm phán có nhiệm kì suốt đời, chỉ bị bãi miễn trong những
trường hợp luật định. Việc quy định nhiệm kì suốt đời của thẩm phán nhằm đảm bảo
cho các thẩm phán hồn tồn độc lập, khơng chịu sự chi phối của các cơ quan lập pháp
và hành pháp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
6
Truy cập
ngày 7/5/2015.
12
Tòa án tối cao chủ yếu chỉ thực hiện các hoạt động giải thích Hiến pháp, các đạo
luật và các Hiệp ước của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, thường xét xử những vụ việc liên
quan đến các quan chức cao cấp, người nước ngồi và những vụ việc trong đó có một
bang là một bên. Các phán quyết của Tịa án tối cao mang tính chung thẩm, quyết định
của Tịa án tối cao thì khơng thể chuyển lên phúc thẩm ở bất kỳ Tòa án nào khác. Tức
là khi Tòa án tối cao ra phán quyết một văn bản pháp luật nào đó vi hiến thì chắc chắn
rằng văn bản này sẽ không bao giờ được áp dụng mặc dù trên thực tế Tịa án tối cao
khơng có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc sắp xếp các vụ xét xử và giảm gánh nặng cho Tòa án tối cao. Quốc
hội đã thành lập ra 13 Tòa phúc thẩm liên bang, các Tòa này chủ yếu xét xử các vụ án
ở 50 bang và xét xử phúc thẩm những vụ đặc biệt. Các phán quyết của Tòa phúc thẩm
có thể kháng nghị lên Tịa án tối cao.
Việc giao cho hệ thống tòa án thực hiện hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở Liên bang
Mỹ cùng với việc áp dụng triệt để của nguyên tắc tam quyền phân lập, các cơ quan
kiềm chế đối trọng lẫn nhau đã đảm bảo được tính độc lập của hoạt động bảo hiến
trong q trình giải quyết vụ việc có liên quan đến vấn đề vi phạm Hiến pháp. Các cơ
quan tư pháp không chịu bất kỳ ảnh hưởng, tác động nào từ hai nhánh quyền lực còn
lại là hành pháp và tư pháp.
Tuy nhiên, cũng chính thẩm quyền thực hiện hoạt động bảo hiến là của hệ thống
tòa án nên đã dẫn tới nguy cơ lạm quyền từ phía các cơ quan này. Hậu quả là các tịa án
khơng chỉ tun bố các đạo luật vi phạm trực tiếp đến quy định của Hiến pháp mà còn
tuyên bố các văn bản pháp luật ảnh hưởng đến tinh thần (gián tiếp) của Hiến pháp là vi
hiến. Vì thế, nội dung của các văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành lúc này
sẽ không được đảm bảo, các quy định bảo vệ quyền lợi của công dân trong Hiến pháp
cũng không được đảm bảo bởi lẽ các cơ quan tư pháp cũng khơng thể hiểu hết được ý
chí của nhà làm luật khi ban hành ra các đạo luật.
1.2.2 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Cộng hòa
Pháp
Theo cơ chế bảo hiến của Cộng hòa Pháp, một cơ quan bảo vệ Hiến pháp được
thành lập để thực hiện các hoạt động bảo vệ Hiến pháp đó là Hội đồng bảo hiến. Hội
đồng bảo hiến là cơ quan hoàn toàn độc lập so với các cơ quan nhà nước khác, cũng
13
không thuộc ba nhánh quyền lực nhà nước và được coi là cơ quan có địa vị cao hơn
hẳn các cơ quan nhà nước khác.
Số lượng thành viên cũng như cách thức bổ nhiệm của Hội đồng bảo hiến được
quy định rõ trong chương VII, cụ thể nhất trong Điều 56 của Hiến pháp Cộng hòa
Pháp. Hội đồng bảo hiến được thành lập với hai loại thành viên: thành viên được bổ
nhiệm và thành viên đương nhiên. Hội đồng bao gồm 9 thành viên được bổ nhiệm có
nhiệm kỳ 9 năm và không được tái nhiệm. Cứ 3 năm một lần Hội đồng bảo hiến thay
thế 1/3 số thành viên nhằm đảm bảo tính khách quan và hiệu quả trong hoạt động của
các thành viên. Ba thành viên do Tổng thống bổ nhiệm, ba thành viên do Chủ tịch Hạ
viện bổ nhiệm, ba thành viên do Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm. Bên cạnh các thành
viên trên thì các cựu Tổng thống là thành viên đương nhiên có nhiệm kì suốt đời. Tuy
nhiên, rất ít cựu Tổng thống tham gia vào Hội đồng. Chủ tịch Hội đồng bảo hiến do
Tổng thống bổ nhiệm. Trong trường hợp số phiếu của các thành viên ngang nhau,
phiếu của Chủ tịch có giá trị quyết định. Hiến pháp khơng có quy định cụ thể nào giới
hạn tuổi tác hay giới hạn trình độ của thành viên Hội đồng. Do đó, Tổng thống có thể
lựa chọn bất kỳ người nào vào Hội đồng bảo hiến. Tuy nhiên trên thực tế, để giữ uy tín
riêng cho mình cũng như uy tín của Đảng mình thì Tổng thống Cộng hòa Pháp, Chủ
tịch hai viện thường chọn những người có trình độ đã qua đào tạo luật, có cùng quan
điểm chính trị và đặc biệt là chọn từ các thẩm phán, các quan chức hành chính có uy
tín, các chính khách, các cơng tố viên, các luật sư…để bổ nhiệm vào Hội đồng 7. Thành
viên của Hội đồng bảo hiến không đồng thời kiêm nhiệm Bộ trưởng hoặc thành viên
của Nghị viện, các thành viên phải chấp hành nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm các chức
vụ nhà nước khác cũng như việc tham gia các tổ chức kinh tế, lãnh đạo chính đảng
(quy định trong Điều 58 của Hiến pháp Cộng hòa Pháp), để đảm bảo được sự độc lập
trong quá trình thực hiện hoạt động bảo hiến của mình. Đây cũng được coi là một điểm
khác biệt so với mơ hình bảo hiến của Liên bang Mỹ.
Với quy định thành phần thành viên của Hội đồng bảo hiến khơng u cầu phải là
người có trình độ chun môn cao về mặt luật pháp mà chủ yếu là các nhà chính trị nên
việc giải quyết vấn đề Hiến pháp chưa phát huy hiệu quả cao nhất bởi những vấn đề về
Hiến pháp thường rất phức tạp đòi hỏi những người có thẩm quyền giải quyết phải có
chun mơn nghiệp vụ và kinh nghiệm về pháp luật cao.
7
Huỳnh Minh Hiền (2012), So sánh mơ hình bảo hiến của Việt Nam, Hoa Kỳ và Pháp, Khóa luận tốt nghiệp,
TP.HCM, tr.34.
14
1.2.3 Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Việt Nam
Theo quy định tại Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành (Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ,
Luật hoạt động giám sát Quốc hội…), chủ thể tham gia vào hoạt động bảo hiến của
Việt Nam bao gồm nhiều cơ quan trong bộ máy nhà nước, từ trung ương đến địa
phương và trên cả ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ
quan có chức năng thực hiện hoạt động bảo hiến bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao…, trong số các cơ quan này Quốc hội giữ vai trò giám sát tối cao.
a. Quốc hội và các cơ quan chuyên trách của Quốc hội
Chức năng bảo hiến thực hiện bởi Quốc hội được hiểu dưới dạng là chức năng
giám sát Hiến pháp, giám sát các văn bản pháp luật và hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, chức năng này lại được chuyên môn hóa cho Quốc hội cũng như từng
cơ quan chun mơn của Quốc hội.
Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhất trong hệ thống bộ máy nhà nước, có vai trị
giám sát tối cao hoạt động của cơ quan nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
các văn bản quy phạm pháp luật và các hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, những văn
bản quy phạm liên tịch giữa cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan trung ương của
tổ chức chính trị xã hội, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng không nằm ngoài thẩm
quyền giám sát Hiến pháp của Quốc hội. Thẩm quyền này được quy định cụ thể trong
khoản 2 Điều 70 Hiến pháp 2013: Quốc hội “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội”. Tuy nhiên, hoạt động giám sát của
Quốc hội tập trung chủ yếu vào giám sát quyền lực ở trung ương chứ khơng trải rộng
đến các cấp chính quyền địa phương.
Bên cạnh quyền giám sát tối cao, Quốc hội còn là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Điều này đồng nghĩa với việc khơng có một cơ quan nào có thể đứng trên
Quốc hội để tài phán về tính hợp hiến trong hoạt động của Quốc hội mà chính Quốc
hội sẽ tự kiểm tra, giám sát tính hợp hiến trong hoạt động của mình.
15
Theo tinh thần của Điều 69 Hiến pháp năm 2013 thì, “Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, do vậy, phải hiểu rằng Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao không chỉ đối với các cơ quan nhà nước cấp cao
đã được phân tích trên đây (như của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao) mà còn đối với
các cơ quan nhà nước khác như các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc
Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang và công dân. Việc giám sát hoạt động của các cơ quan này được phân giao
(phân cấp, phân tầng) cho các cơ quan khác nhau thực hiện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm nhiệm chức năng giám sát các văn bản quy
phạm pháp luật cũng như hoạt động của Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành
lập. Thẩm quyền này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được quy định cụ thể tại khoản
3 Điều 74 Hiến pháp 2013 và các quy định tại Chương II Luật tổ chức Quốc hội năm
2014 và Luật giám sát hoạt động của Quốc hội năm 2003. Các hoạt động bảo hiến của
Ủy ban thường vụ Quốc hội nhìn chung cũng tương tự như Quốc hội.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: thực hiện việc giám sát đối với
các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ở trung ương với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
thuộc lĩnh vực mà Hội đồng dân tộc và Ủy ban phụ trách. Hội đồng và Ủy ban có thể
thực hiện hoạt động giám sát Hiến pháp của mình bằng việc kiến nghị, yêu cầu Chính
phủ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề xuất hoặc quyết định về việc sửa đổi, chấm
dứt hiệu lực; đình chỉ tồn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế có dấu hiệu trái với Hiến
pháp.
Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội: có quyền thực hiện hoạt động
giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 41 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội).
b. Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước thực hiện việc giám sát Hiến pháp đối
với các văn bản pháp luật và hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
16
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước thực hiện hoạt
động giám sát Hiến pháp trong phạm vi thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp 8.
c. Chính Phủ.
Đây là cơ quan chấp hành của Quốc hội và cũng là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất. Chính phủ cũng thực hiện quyền giám sát Hiến pháp thông qua hoạt động
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Quyền giám sát Hiến pháp của Chính phủ chủ yếu
được thực hiện thơng qua vai trị của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ có
quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ
trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên”, “đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ”
(Điều 96 Hiến pháp năm 2013).
Ngồi ra, bảo hiến cịn được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan tư
pháp, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Các cơ quan này đã tham gia tích cực vào hoạt động bảo hiến, bảo vệ tính tối cao của
Hiến pháp.
Ở Việt Nam hoạt động bảo hiến được giao cho nhiều cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương và các cơ quan ở ba nhánh quyền lực. Điều này đã đảm bảo được
tính toàn diện của hoạt động bảo hiến. Tuy nhiên, việc giao cho nhiều cơ quan cùng
thực hiện nhưng lại không tập trung vào một cơ quan chuyên môn nào và cơ chế hoạt
động không rõ ràng đã dẫn đến thực trạng các cơ quan này vừa thực hiện nhiệm vụ
chức năng của mình vừa phải thực hiện chức năng bảo hiến, vì thế mà hoạt động bảo
hiến của nước ta khơng được chun sâu, chỉ mang tính dàn trải. Chưa kể tới việc,
chính vì q nhiều cơ quan đảm nhiệm chéo cho nên sẽ dẫn đến thực trạng “lắm sãi
không ai đóng cửa chùa”, thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan
trong việc thực hiện hoạt động bảo hiến của mình.
8
Xem thêm: Điều 88 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
17
Như vậy, về mặt chủ thể, giữa cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng hòa Pháp
và Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt. Liên bang Mỹ trao quyền thực hiện hoạt động bảo
hiến cho các cơ quan tư pháp, cụ thể là tòa án các cấp. Ở Cộng hịa Pháp, chỉ có Hội
đồng bảo hiến mới có quyền tuyên một văn bản pháp luật là vi hiến tức là chỉ Hội đồng
này mới có quyền bảo hiến. Các tòa án khác phải chuyển vấn đề liên quan đến Hiến
pháp cho Hội đồng bảo hiến. Trong khi đó, Việt nam lại giao cho quá nhiều chủ thể
thực hiện hoạt động bảo hiến, nguyên nhân là do công tác bảo hiến vẫn chưa được
chúng ta xem trọng đúng mức, hoạt động bảo hiến chỉ mang tính hình thức. Sự khác
nhau về mặt chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiến là xuất phát từ điều kiện về chính trị,
kinh tế, xã hội đặc thù cũng như nguyên tắc trong hệ thống pháp luật của ba quốc gia
Liên bang Mỹ, Cộng hòa Pháp và Việt Nam.
1.3 So sánh thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ, Cộng
hòa Pháp và Việt Nam
1.3.1 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Liên bang Mỹ
Hoạt động bảo vệ Hiến pháp được giao cho hệ thống các cơ quan tư pháp, do đó,
các cơ quan tư pháp làm nhiệm vụ bảo hiến cũng có những nhiệm vụ nhất định trong
việc giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước, phán xét tính
hợp hiến của các đạo luật do Nghị viện ban hành, giải thích Hiến pháp và các đạo
luật… Tịa án chỉ có thể sử dụng thẩm quyền này trong trường hợp đối với việc giải
quyết một vụ việc cụ thể, tức là có liên quan đến lợi ích của các bên đề nghị xem xét
tính hợp hiến của các đạo luật.
Thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật: thẩm quyền này
được giao cho tất cả các tịa án nhưng trong đó vai trị của Tịa án tối cao là quan trọng
nhất. Bởi vì phán quyết của bất kì tịa án cấp dưới nào cũng có thể bị kháng nghị lên
Tòa án tối cao và lúc nào phán quyết của Tòa án tối cao Liên bang Mỹ cũng có giá trị
chung thẩm. Đặc biệt, thẩm quyền của Tịa án tối cao trong việc xét xử tính hợp hiến
của các văn bản pháp luật là rất lớn do thẩm quyền này hồn tồn độc lập, khơng thể bị
can thiệp bởi hai nhánh quyền lực còn lại là hành pháp (Tổng thống) và lập pháp (Nghị
viện). Ngay cả trong giai đoạn Liên bang Mỹ tiến hành cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, một số văn bản quy phạm pháp luật trong thời kỳ này mâu thuẫn với Hiến
pháp cũng bị Tòa án tối cao Liên bang Mỹ tuyên bố là vi hiến như Luật Phục hồi công
18
nghiệp quốc gia, Luật điều chỉnh nông nghiệp và nhiều dự luật khác trong chương trình
cả gói do F.D.Roosevelt khởi xướng 9.
Do thẩm quyền xem xét tính hợp hiến khơng chỉ của các đạo luật thuộc chính
quyền liên bang mà còn bao gồm các đạo luật của tiểu bang. Nên theo hệ thống liên
bang, quyền bảo hiến cũng được phân thành ba cấp khác nhau. Thứ nhất là thẩm quyền
bảo hiến cấp quốc gia, đây là thẩm quyền của tất cả các tịa án xem xét tính hợp hiến
của các đạo luật của Quốc hội dựa theo Hiến pháp Liên bang Mỹ (thẩm quyền này
được suy ra từ thực tiễn xét xử của Tòa án tối cao). Thứ hai, thẩm quyền bảo hiến cấp
liên bang là thẩm quyền của tất cả các tịa án xét xử tính hợp hiến của các đạo luật tiểu
bang dựa trên Hiến pháp Liên bang Mỹ (được thiết lập từ điều khoản về tính tối cao
của Hiến pháp). Thứ ba, thẩm quyền bảo hiến cấp tiểu bang là thẩm quyền của tất cả
tòa án xem xét tính hợp hiến của các đạo luật tiểu bang dựa trên Hiến pháp tiểu bang
(được thiết lập trong các quy định của Hiến pháp tiểu bang) 10.
Thẩm quyền giải thích Hiến pháp và các đạo luật. Các cơ quan tư pháp đã thực
hiện thẩm quyền này của mình thơng qua hoạt động của các thẩm phán thường xuyên
tiến hành việc giải thích pháp luật và giải thích Hiến pháp. Thẩm quyền này khơng
được quy định trong bất kì văn bản pháp luật nào của Liên bang Mỹ, nhưng tòa án vẫn
ln thường xun giải thích Hiến pháp và các đạo luật để đảm bảo tinh thần của Hiến
pháp luôn được thể hiện trong các văn bản pháp luật.
Ngoài ra, tịa án của Liên bang Mỹ cịn có thẩm quyền trong việc tuyên bố bất kỳ
một văn bản hay một quyết định nào của Tổng thống và Chính phủ là vi hiến.
Như vậy, thẩm quyền của Tòa án Liên bang Mỹ trong việc bảo vệ Hiến pháp
không phải là thẩm quyền Hiến định mà được thiết lập từ cơ cở thực tiễn xét xử và từ
thẩm quyền giải thích Hiến pháp.
1.3.2 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Cộng hòa Pháp
Hội đồng bảo hiến của Cộng hòa Pháp có những thẩm quyền như sau:
Thứ nhất, thẩm quyền giải thích và xem xét tính hợp hiến của các đạo luật.
Vũ Văn Nhiêm, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2013), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc đảm bảo
quyền con người, NXB Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.60.
10
Xem thêm Truy cập ngày 9/5/2015.
9
19
Việc giải thích Hiến pháp là hoạt động quan trọng nhất bởi lẽ các quy định trong
Hiến pháp mang tính quy tắc chung và quy định trong Hiến pháp mang tính tối cao.
Hoạt động này cũng được giao cho Hội đồng bảo hiến.
Hội đồng bảo hiến có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các văn bản luật, các
điều ước quốc tế đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắc lệnh của Tổng thống, các nghị
định của chính phủ, có thể tuyên bố một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi hiến và
làm vơ hiệu hóa các văn bản đó. Việc giám sát tính hợp hiến của luật hay điều ước
quốc tế Hội đồng bảo hiến được chia thành giám sát đương nhiên và giám sát theo yêu
cầu. Giám sát đương nhiên (giám sát bắt buộc) là trường hợp Hội đồng bảo hiến phải
chủ động thực hiện hoạt động giám sát hiến pháp của mình mà khơng cần có u cầu từ
các chủ thể khác. Hiến pháp năm 1958 quy định rằng nếu một văn bản luật sẽ được ban
hành với tư cách là một luật tổ chức hoặc một quy tắc tố tụng của Nghị viện thì nó bắt
buộc phải có ý kiến từ Hội đồng bảo hiến. Giám sát theo yêu cầu là trường hợp nếu
khơng thuộc trường hợp trên và nếu đó là một điều ước quốc tế thì Hội đồng bảo hiến
chỉ được giám sát tính hợp hiến của chúng khi có yêu cầu từ một trong các chủ thể sau:
Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch một trong hai viện, hoặc sáu mươi thành viên của
một trong hai viện. Việc giám sát các văn bản, các đạo luật chưa có hiệu lực thi hành
giúp hạn chế việc thông qua các văn bản vi hiến, tránh tình trạng các cơ quan nhà nước
sẽ áp dụng các văn bản vi hiến sau khi nó có hiệu lực.
Thẩm quyền tư vấn: Hội đồng bảo hiến có quyền tham gia vào việc tư vấn tổ chức
bộ máy nhà nước, các vấn đề chính trị. Hội đồng có quyền tham gia vào việc thiết lập
vị trí Tổng thống khi vị trí này khơng thực thi được nhiệm vụ của mình, và có quyền
đưa ra ý kiến khi Tổng thống quyết định những biện pháp đặc biệt trong những hồn
cảnh đặc biệt.
Thẩm quyền xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử Tổng thống, bầu cử Nghị
viện và trưng cầu dân ý (Điều 58, 59, 60 Hiến pháp 1958). Hội đồng bảo hiến thực
hiện thẩm quyền này thông qua các hoạt động như kiểm tra tư cách ứng cử viên Tổng
thống, giám sát việc bỏ phiếu cho ý kiến về cuộc bầu cử, tư vấn và tiến hành xem xét
các khiếu nại của chủ thể tham gia bầu cử được pháp luật quy định. Đặc biệt Hội đồng
bảo hiến cịn có quyền xác định tư cách pháp lý của các nghị sĩ, có quyền bãi nhiệm
hoặc buộc thành viên của Nghị viện từ chức khi không đủ tư cách. Thẩm quyền này
trên thực tế dường như không tồn tại vì đây là quyền mang tính chất chính trị có khả
20
năng lấn sâu và gây ra tình trạng lạm quyền của Hội đồng bảo hiến. Các quyết định của
Hội đồng bảo hiến là quyết định cuối cùng và bắt buộc thi hành đối với tất cả các cơ
quan nhà nước và không được khiếu nại. Thẩm quyền này chỉ được thực hiện khi có
yêu cầu.
Thẩm quyền bảo hiến trong việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền ban hành
văn bản pháp luật giữa chính phủ và nghị viện. Hội đồng bảo hiến có thể tham gia vào
giai đoạn soạn thảo các đạo luật hoặc sửa đổi các đạo luật khi có tranh chấp thẩm
quyền giữa Nghị viện và Chính phủ (Chính phủ cho rằng những quy định của đạo luật
đang được Nghị viện soạn thảo chứa đựng những vấn đề không nằm trong phạm vi tại
Điều 34 Hiến pháp). Đây là thẩm quyền mà Hiến pháp trao cho Hội đồng bảo hiến.
Đặc biệt hơn, thẩm quyền này của Hội đồng bảo hiến còn được quy định trong Điều 37
Hiến pháp 1958 “đạo luật nào đã được ban hành sau khi thi hành Hiến pháp chỉ có thể
bị sửa đổi bởi sắc lệnh nếu Hội đồng bảo hiến tuyên bố đạo luật đó bị vi hiến” 11.
Thẩm quyền bảo hiến về quyền con người và quyền công dân được quy định
trong Hiến pháp. Thẩm quyền này của Hội đồng bảo hiến được quy định cụ thể trong
Lời nói đầu của Hiến pháp 1958, ngoài ra các quy định cụ thể khác khơng được ghi
nhận trong Hiến pháp của Cộng hịa Pháp. Hội đồng bảo hiến đã lấy cơ sở là Lời nói
đầu của Hiến pháp để xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật liên quan đến
quyền con người và quyền công dân. Như vậy, quyền xem xét tính hợp hiến các đạo
luật của Hội đồng bảo hiến không chỉ thu hẹp trong phạm vi các điều Hiến pháp quy
định mà cịn được mở rộng sang Lời nói đầu và các nguyên tắc chung về quyền con
người 12. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền và tự do của công
dân.
1.3.3 Thẩm quyền bảo hiến trong cơ chế bảo hiến của Việt Nam
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các chủ thể được giao nhiệm vụ thực hiện
hoạt động bảo vệ Hiến pháp có một số thẩm quyền sau đây:
a. Xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật
11
Huỳnh Minh Hiền (2012), So sánh mơ hình bảo hiến của Việt Nam, Hoa Kỳ và Pháp, Khóa luận tốt nghiệp,
TP.HCM, tr.41.
12
Vũ Văn Nhiêm, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang (2013), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc đảm bảo
quyền con người, NXB Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.97.
21
Theo Điều 52 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Quốc hội có
quyền xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật ngay từ lúc thông qua
văn bản. Trong trường hợp các văn bản đã có hiệu lực pháp luật, Quốc hội sẽ có quyền
ra quyết định bãi bỏ một phần hoặc tồn bộ văn bản có dấu hiệu trái với Hiến pháp của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát văn bản quy phạm pháp
luật bằng cách tự mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội, Đại biểu Quốc hội hủy bỏ một phần hoặc tồn bộ văn bản quy phạm pháp luật có
dấu hiệu vi hiến trong phạm vi quyền hạn của mình.
Chính phủ thực hiện thẩm quyền này thông qua một số hoạt động như: Thủ tướng
Chính phủ ra quyết định thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật trái
với Hiến pháp hoặc đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ các văn bản đó.
Ngồi ra, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cũng có quyền thực hiện quyền
giám sát tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế chính trị địa phương ban hành. Từ đó, đảm bảo cho việc giám sát các văn bản
pháp luật một cách toàn diện từ trung ương đến địa phương.
b. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc
thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Theo quy định tại điều Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và chương V Hiến
pháp 2013, Quốc hội có thẩm quyền xem xét các báo cáo công tác của Chủ tịch nước,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; chất vấn và xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tịa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát các hoạt
động thực tiễn về tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, luật,
nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các đối tượng giám sát đã nêu trên.
Tuy nhiên, Quốc hội chủ yếu thực hiện giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà
nước ở trung ương hoặc các cá nhân đứng đầu của các cơ quan này để đảm bảo cho
việc thực hiện giám sát tối cao được hiệu quả.