Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Định tội danh tội tham ô tài sản theo luật hình sự việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TƠN TRUNG TUẤN

ĐỊNH TỘI DANH TỘI THAM Ơ TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TƠN TRUNG TUẤN

ĐỊNH TỘI DANH TỘI THAM Ơ TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số CN: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ QUANG VINH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Kết quả nêu trong
luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kì cơng trình nào khác.

TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TÔN TRUNG TUẤN

năm 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN .................................................. 5
1.1. L

uậ

u

về ị

t


111

h i ni m v đ nh t i danh và ngh a của vi c đ nh t i danh ........................ 5

...................................................................... 5

1 1 2 Chủ thể đ nh t i danh .................................................................................... 13
1 1 3 Cấu thành t i phạm là cơ sở ph p l của đ nh t i danh ............................... 16
1.2. Quy ị
p áp
121



ủ B
t

uật Hì

sự ăm 1999 về t

t

m ô tà sả – ơ sở

...................................................................................................... 18

h i ni m và c c dấu hi u ph p l của t i tham ô tài sản ........................... 18

1 2 2 Hình phạt đối với t i tham ơ tài sản ............................................................. 26

1.3. P

tt

t

m ô tà sả v

m t số t

khác .......................................... 28

1 3 1 Phân bi t t i tham ô tài sản với t i sử dụng tr i phép tài sản ...................... 28
1 3 2 Phân bi t t i tham ô tài sản với t i lạm dụng t n nhi m chiếm đoạt tài sản ........ 29
1 3 3 Phân bi t t i tham ô tài sản với t i lạm dụng chức vụ, quy n hạn chiếm
đoạt tài sản .............................................................................................................. 30
1 3 4 Phân bi t t i tham ô tài sản với t i cố làm tr i quy đ nh của Nhà nước
v quản l kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng ......................................................... 31
CHƢƠNG 2. THỰC TI N ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô
TÀI SẢN VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ....................................... 33
2.1. T ự t



t

ố v

t


t

m ô tà sả ...................................... 33

2 1 1 X c đ nh kh ch thể trực tiếp và đối tượng t c đ ng của t i tham ô tài
sản trong thực tiễn đ nh t i danh ............................................................................ 33
2 1 2 X c đ nh mặt kh ch quan của t i tham ô tài sản trong thực tiễn đ nh
t i danh ................................................................................................................... 39
2 1 3 X c đ nh chủ thể t i tham ô tài sản trong thực tiễn đ nh t i danh ............... 49
2 1 4 X c đ nh mặt chủ quan t i tham ô tài sản trong thực tiễn đ nh t i danh ..... 53


2.1.5. X c đ nh tình tiết đ nh t i, c c tình tiết tăng nặng đ nh khung trong
thực tiễn đ nh t i danh t i tham ô tài sản ............................................................... 54
ết luận Tiểu mục 2 1 ............................................................................................ 58
2.2. Vấ


ề oà t
t

p áp uật và
ố v

à

v t

ả p áp


o

u quả oạt

m ô tà sả ............................................. 59

2 2 1 Hồn thi n ph p luật hình sự v t i tham ô tài sản ...................................... 59
2 2 2 Giải ph p kh c nâng cao hi u quả hoạt đ ng đ nh t i danh đối với hành
vi tham ô tài sản ...................................................................................................... 61

KẾT LUẬN ................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. L o ọ ề tà
Tội phạm tham nhũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, kinh
tế và xã hội; gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển mọi mặt của nền kinh tế - xã hội.
Tham nhũng tạo ra những rào cản, cản trở việc thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, tham nhũng gây ra những thiệt hại to lớn về mặt kinh tế cho Nhà nước
và xã hội, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm đáng kể năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tham nhũng còn làm ảnh hưởng đến các giá trị,
chuẩn mực đạo đức và pháp luật, làm xuống cấp đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Trong nhóm tội phạm tham nhũng, tội tham ô tài sản là một trong những
tội phạm xảy ra nhiều với mức độ nguy hiểm cho xã hội rất cao do hậu quả gây ra
nghiêm trọng với số tiền chiếm đoạt thường rất lớn. Trong một số cơ quan, tổ chức

đã hình thành các đường dây tham ơ hàng tỷ, thậm chí hàng ngàn tỷ đồng của Nhà
nước, với tính chất tập thể, câu kết chặt chẽ có xu hướng tăng. Có thể điểm qua một
số vụ án gây nhiều bức xúc trong dư luận như vụ án Vũ Quốc Hảo và đồng phạm
tham ô 130 tỉ đồng xảy ra tại Cơng ty cho th tài chính II thuộc Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, vụ án Dương Chí Dũng gây thiệt hại cho Vinalines
gần 367 tỷ đồng, trong đó cùng với đồng phạm tham ơ 28 tỷ đồng, vụ án Nguyễn
Đức Kiên và đồng phạm gây thiệt hại 1.695 tỷ đồng tại ngân hàng ACB, vụ án
Huỳnh Thị Huyền Như cùng đồng phạm chiếm đoạt của chín cơng ty, ba ngân hàng
và ba cá nhân khoảng 4.000 tỷ đồng …
Trước tình hình tội phạm tham ơ tài sản diễn ra phức tạp, xảy ra ở nhiều
ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực. gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, cơng tác
phịng ngừa và nghiêm trị tội tham ô tài sản là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của cả hệ thống chính trị, thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng và Nhà nước
qua nhiều chủ trương, đường lối và chính sách pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn
áp dụng pháp luật đang tồn tại một số vướng mắc khó khăn trong việc định tội đối
với tội tham ô tài sản do bất cập của pháp luật cũng như do đang cịn có những nhận
thức khác nhau về một số dấu hiệu trong cấu thành cơ bản, đặc biệt là ở dấu hiệu
chủ thể và khách thể của tội tham ơ tài sản. Có thể thấy điều này qua vụ án gây thiệt
hại đặc biệt lớn, được dư luận quan tâm hiện nay là vụ án Huỳnh Thị Huyền Như.


2
Qua hai cấp xét xử đã xảy ra quan điểm khác nhau về việc định tội danh là lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hay tham ô tài sản đối với số tiền chiếm đoạt 1.085 tỷ đồng của
năm công ty (Bảo hiểm Tồn Cầu, Hưng n, SBBS, Chứng khốn Phương Đông,
Phúc Vinh). Đối với những người trực tiếp tiến hành tố tụng thì việc định tội danh
đối với tội tham ô tài sản cũng không phải dễ dàng. Tại đợt khảo sát điều tra xã hội
học lấy ý kiến chuyên gia là các Thẩm phán xét xử hình sự của 12 tỉnh phía Nam
được thực hiện tại Đợt tập huấn hình sự từ ngày 15/4/2013 đến ngày 18/4/2013 tại
Vũng Tàu, các Thẩm phán đánh giá việc định tội danh đối với tội tham ơ tài sản một

cách chính xác rất khó là 05/50 Thẩm phán được hỏi, chiếm tỉ lệ 10%; là khó là
22/50, chiếm tỉ lệ 44%; trong khi đó số Thẩm phán đánh giá là bình thường là
21/50, chiếm tỉ lệ 42%, khơng khó chỉ 2/50, chiếm tỉ lệ 4%1. Khảo sát cũng cho
thấy hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về đối tượng tác động của tội phạm đối với
trường hợp tài sản trong doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước; cịn có sự nhầm
lẫn giữa khách thể trực tiếp và đối tượng tác động; nhiều dấu hiệu pháp lý của tội
phạm tham ô tài sản chưa rõ ràng dẫn đến lúng túng cho cơ quan tiến hành tố tụng
khi tiến hành định tội, việc phân định đâu là tội tham ô tài sản, đâu là các tội phạm
khác trong một số trường hợp cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Điều này có thể
dẫn đến sự tuỳ tiện, khơng có căn cứ pháp lý và không bảo đảm nguyên tắc pháp
chế trong áp dụng pháp luật, trong khi cơ quan chịu trách nhiệm hướng dấn áp dụng
thống nhất pháp luật là Tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa có hướng dẫn một cách có
hệ thống. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về mức độ khó khi định tội tham ơ tài
sản nhưng có đến 43/50 Thẩm phán được hỏi, chiếm tỉ lệ 86%2, cho rằng cần có
hướng dẫn chi tiết để việc định tội danh tham ô tài sản được thực hiện thống nhất,
tránh nhầm lẫn giữa tội tham ô tài sản với tội danh khác.
Do đó, vấn đề hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả trong thực tiễn định
tội danh đối với tội tham ô tài sản là vấn đề cấp bách hiện nay.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Định tội danh
tội tham ô tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình.

1
2

Xem phụ lục (1) và (2)
Xem phụ lục (1) và (2)


3

2. Tì
ì
ê ứu ề tà
Qua nghiên cứu tìm hiểu, thì hiện nay đã có một số sách, giáo trình viết về lý
luận chung định tội danh như: Võ Khánh Vinh (2003), Gi o trình l luận chung v
đ nh t i danh, Nxb Công an nhân dân; Võ Khánh Vinh (2013), L luận chung v
đ nh t i danh, Nxb Khoa học xã hội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), T i phạm và cấu
thành t i phạm, Nxb Công an nhân dân; Đoàn Tấn Minh (chủ biên 2010), Phương
ph p đ nh t i danh và hướng dẫn đ nh t i danh đối với 342 t i danh trong B luật
Hình sự, Nxb Tư Pháp; Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2011), Đ nh t i danh: L
luận, hướng dẫn mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội… Các cơng
trình nghiên cứu này đã trình bày những vấn đề lý luận chung về định tội danh,
phương pháp định tội danh, đây là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu vấn đề định tội
danh đối với tội tham ơ tài sản.
Các cơng trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề định tội danh đối với tội tham
ơ tài sản đến nay có Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Quang Sơn (2007), T i
tham ô tài sản trong B luật Hình sự Vi t Nam - Những vấn đ l luận và thực tiễn,
Đại học Luật Hà nội; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Tạ Thu Thủy (2009), T i tham
ô tài sản trong luật hình sự Vi t Nam - M t số vấn đ l luận và thực tiễn, Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung bài viết khái quát sự hình thành và phát
triển của luật hình sự về tội tham ô tài sản, thực tiễn vận dụng pháp luật trong điều
tra, truy tố xét xử, một số kiến nghị, bổ sung quy phạm pháp luật về tội tham ô và
kiến nghị nâng cao hiệu quả về quản lý tài sản.
Một số các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học như: Ngơ Minh Hưng
(2007) “Đồng phạm trong tội tham ơ tài sản, cũng phải là người có chức vụ, quyền
hạn”, Tạp ch Tòa n nhân dân (Số 9 tháng 5/2007), Ban Biên tập Tạp chí Tịa án
nhân dân (2008), “Đồng phạm trong tội tham ô tài sản khơng nhất thiết phải là
người có chức vụ, quyền hạn”. Tạp ch Toà n nhân dân (Số 7/2008), Trương Thị
Hằng (2006) “Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản trong Bộ luật Hình sự năm
1999”, Tạp ch iểm s t (Số /2006), Trương Bá Hùng (2006) “Bàn về việc định tội

tham ô tài sản trong giai đoạn hiện nay ”, Tạp ch iểm s t (Số 22/2006), Trần
Quang Sơn (2009) “Cần có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khách thể của tội tham ô
tài sản” Tạp ch kiểm s t (Số 5/2009), Đinh Văn Quế (2009), “Một số vấn đề về tội
tham ô tài sản và những vướng mắc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp ch Tòa n nhân
dân kỳ I, II, tháng 6-2009 (Số 11,12) Đinh Khắc Tiến (2006) “Việc xác định tội
tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” Tạp ch iểm s t (Số 6/2006) Trần Duy


4
Thanh (2008) “Xác định cấu thành tội phạm tham ô tài sản trong doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp ch Công an Nhân dân (Số tháng 7/2008), … Các bài báo
này đã phân tích và bình luận về một số dấu hiệu pháp lý của tội phạm, nêu một số
vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với một số trường hợp cụ thể.
Một số cơng trình tuy đã nghiên cứu về tội tham ô tài sản nhưng đã xa về
thời gian, một số các bài viết, nghiên cứu khoa học nêu trên chỉ bàn về một số khía
cạnh trong vấn đề định tội danh đối với tội phạm này. Do vậy cần có những cơng
trình khoa học tiếp tục nghiên cứu đầy đủ và cập nhật tình hình hiện nay về vấn đề
định tội danh đối với tội tham ơ tài sản.
3. Mụ í , ố tƣợ
ê ứu,
ạ p ạm v
ê ứu
Mục đ ch nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận định tội danh và ứng
dụng lý luận đó vào việc phân tích thực tiễn định tội đối với tội tham ô tài sản theo
dấu hiệu chủ thể và khách thể tội phạm, mục đích nghiên cứu đề tài là đưa ra đề
xuất về vấn đề hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động
định tội đối với tội phạm tham ô tài sản.
Đối tượng nghiên cứu: Là quy định của Bộ luật Hình sự về tội tham ơ tài sản
và thực tiễn định tội danh đối với hành vi tham ô tài sản.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về định tội danh đối với tội tham

ô tài sản dưới góc độ pháp lý hình sự. Thực tiễn định tội danh được nghiên cứu
trong phạm vi thời gian từ năm 2008 đến 2014.
4. Cá p ƣơ p áp
ê ứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài. Tác giả còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến như thống kê, phân tích, tổng hợp,
so sánh, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia. Việc sử dụng các phương pháp
nêu trên để nghiên cứu các vấn đề của đề tài để bảo đảm tính khách quan của kết
quả nghiên cứu.
5. Ý
ĩ k o ọ và á trị ứ

ủ ề tà
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về định tội
danh đối với một tội phạm cụ thể - tội tham ô tài sản và nâng cao hiệu quả công tác
định tội danh trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần
định hướng hoàn thiện pháp luật quy định về tội tham ô tài sản.


5

CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. L uậ
u về ị t
1.1.1. h i ni m v đ nh t i danh và ngh a của vi c đ nh t i danh
Trong khoa học luật hình sự và thực tiễn, việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự được xem là một quá trình đa dạng và phức tạp, được tiến hành qua

nhiều giai đoạn khác nhau như: giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp
luật về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt, xem xét trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt, quyết định cho hưởng án treo, xố án
tích, … Trong đó, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, là tiền đề,
cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự. Ví dụ: định tội danh là cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật
về xác định thẩm quyền và thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, là cơ sở cho việc quyết định áp dụng loại hình phạt nào, có được miễn
hình phạt hay được hưởng án treo khơng, …
Bộ luật Hình sự thể hiện ý chí của Nhà nước đánh giá về mặt pháp lý đối với
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, quy định những hành vi đó là tội phạm. Nhà
làm luật đã tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội, quy định những dấu
hiệu đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất, thường lặp đi lặp lại nhiều nhất của
những hành vi nguy hiểm cho xã hội đó và quy định chúng trong Bộ luật Hình sự
với tính chất là dấu hiệu bắt buộc của các cấu thành tội phạm cụ thể. Định tội danh
là việc “so s nh, đối chiếu, kiểm tra để x c đ nh xem c c dấu hi u của hành vi nguy
hiểm cho xã h i đã được thực hi n trong thực tế có phù hợp với c c dấu hi u tương
ứng của m t cấu thành t i phạm cụ thể nào đó được quy đ nh trong phần c c t i
phạm của B luật Hình sự khơng” 3.
Như vậy, có thể định nghĩa về định tội danh như sau: “Đ nh t i danh là vi c
x c đ nh và ghi nhận v mặt ph p l sự phù hợp ch nh x c giữa c c dấu hi u của
hành vi t i phạm cụ thể đã được thực hi n với c c dấu hi u của cấu thành t i phạm
đã được quy đ nh trong quy phạm ph p luật hình sự” 4.
3
4

Lê Cảm (1999), “Định tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tồ án nhân dân (Số 4/1999), tr.17.
Võ Khánh Vinh (2013), Lí luận chung v đ nh t i danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 9,10.



6
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, khái niệm định tội danh được hiểu ở
hai khía cạnh: định tội danh là một hoạt động tư duy lôgic, là quá trình nhận thức và
định tội danh là một hoạt động áp dụng pháp luật.
Đ nh t i danh là m t hoạt đ ng tư duy lơgic, là q trình nhận thức từ những
điều đã biết để xác định những vấn đề chưa biết dựa trên cơ sở sử dụng các phương
pháp nhận thức và các quy luật lôgic. Trong quá trình định tội danh, cán bộ điều tra,
truy tố, xét xử cần phải làm rõ sự thật khách quan, làm rõ các dấu hiệu đặc trưng, cơ
bản của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, sau đó phân tích, đối
chiếu, so sánh các dấu hiệu của hành vi xảy ra trong thực tế có trùng khớp với quy
phạm pháp luật nào được quy định trong Bộ luật Hình sự khơng. Như vậy, xác định
một hành vi là tội phạm là quá trình đi từ cái chung đến cái riêng. Trong q trình
đó cần phải lưu ý đến những nguyên tắc của luật hình sự về những tình tiết loại trừ
tính chất nguy hiểm cho xã hội. Sự hiện diện của các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong q trình định tội danh, tức là bề ngồi hành
vi có dấu hiệu trùng khớp với dấu hiệu của một tội phạm nào đó, nhưng hành vi đó
khơng trái pháp luật hình sự thì tất nhiên khơng bị coi là tội phạm, ví dụ: một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm
cụ thể nhưng chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm đó khơng có năng lực trách
nhiệm hình sự nên hành vi đó khơng phải là tội phạm. Định tội danh chính xác tức
là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã
hội được thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Định tội danh là một hoạt động
nhận thức phức tạp nên khi định tội danh, những người tiến hành tố tụng cần phải
tiến hành dựa trên những phương pháp nhận thức khoa học (phương pháp quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh) và dựa trên các quy luật lôgic nhất định (luật đồng
nhất, luật mâu thuẫn, luật bài trung, luật lý do đầy đủ …) để làm cơ sở cho hoạt
động nhận thức của mình.
Đ nh t i danh là hoạt đ ng p dụng ph p luật, bởi vì thực chất định tội danh
là xác định sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang được xem xét với cấu

thành tội phạm được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, tức là việc lựa
chọn quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi phạm tội đang được
xem xét và kết luận hành vi phạm tội đang được xem xét đó được quy định ở điều
khoản nào trong Bộ luật Hình sự. Do đó trong q trình định tội danh điều quan
trọng là phải tìm được những dấu hiệu cơ bản, điển hình nhất, phải chỉ ra những dấu


7
hiệu cần và đủ để xác định bản chất của hành vi được thực hiện trong thực tế. Đồng
thời, khi so sánh đối chiếu các dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong
một cấu thành tội phạm luật hình sự phải khẳng định là trùng khớp hồn toàn, kết
luận rằng nhà làm luật khi ban hành quy phạm pháp luật đó là để áp dụng cho
trường hợp phạm tội đang được xem xét.
Việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi
phải tiến hành một cách tuần tự qua các bước khác nhau, từ cái chung đến cái riêng.
Tội phạm là một hành vi vi phạm pháp luật nói chung. Do đó, khi định tội danh,
những người có thẩm quyền phải xác định hành vi xảy ra trong thực tế có vi phạm
pháp luật khơng, vi phạm pháp luật dân sự, pháp luật hành chính hay hình sự, xác
định mức độ nguy hiểm cho xã hội có đáng kể khơng, nếu vi phạm pháp luật về
hình sự thì hành vi đó phạm tội gì, được quy định ở điều khoản nào trong Bộ luật
Hình sự. Trong quá trình định tội danh, cán bộ điều tra, truy tố, xét xử cần phải lưu
ý đến khả năng loại trừ tính chất phạm tội của hành vi, như trường hợp phịng vệ
chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hay người thực hiện hành vi khơng có
năng lực trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự là cơ sở pháp lý duy nhất và trực tiếp cho việc định tội danh.
Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự bao gồm hệ thống các nhóm quy phạm pháp luật được
sắp xếp thành hai phần, phần chung và phần các tội phạm, hai phần này có mối liên
quan chặt chẽ, thống nhất và lôgic với nhau. Nếu các quy phạm pháp luật hình sự
tại phần các tội phạm (quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm tương ứng)
giúp cho chúng ta xác định được sự giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi

nguy hiểm cho xã hội cụ thể được thực hiện, thì các quy phạm pháp luật hình sự tại
phần chung (quy định về lỗi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các giai đoạn của tội
phạm, phạm tội có tổ chức, tái phạm nguy hiểm…) giúp cho chúng ta nhận biết
được một cách nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
thể (thuộc cấu thành tội phạm cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ) của tội phạm tương
ứng đó. Do đó, khi định tội danh thì người định tội danh phải đồng thời dựa vào cả
hai nhóm quy phạm pháp luật hình sự này.
Định tội danh được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự,
các hoạt động định tội danh phải tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng hình sự
từ việc xác định sự thật khách quan cho đến giới hạn của việc điều tra, truy tố
hoặc xét xử.


8
Như vậy, “đ nh t i danh là m t qu trình năng đ ng và phức tạp, được tiến
hành qua tất cả c c giai đoạn tố tụng hình sự; ở mỗi giai đoạn, đ nh t i danh mang
t nh chất và những đặc điểm kh c nhau” 5.
Để đảm bảo việc định tội danh đúng, chúng ta cần tiến hành qua các bước
theo trình tự nhất định, q trình đó bao gồm các bước như sau:
-

Xác định khách quan các tình tiết thực tế của vụ án.
Nhận thức đúng các cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự

-

có thể được áp dụng.
Xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy

định trong luật.

Bước 1: X c đ nh kh ch quan c c tình tiết thực tế của vụ n
Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Toà án sẽ tiến hành thu thập và làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án
một cách khách quan. Các chứng cứ chỉ có giá trị về mặt pháp lý nếu nó được thu
thập bởi các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền bằng việc áp dụng các biện
pháp được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngược lại, những chứng cứ thu
thập bằng các biện pháp khác không được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự
sẽ khơng có giá trị chứng minh.
Xác định sự thật khách quan là tiến hành điều tra, truy tố, xét xử một cách vô
tư, không định kiến, không suy diễn mà phải dựa vào các chứng cứ đã được thu
thập và đánh giá chúng theo quy định pháp luật. Để định tội danh đúng thì cần phải
tìm kiếm, xác định được chân lý sự thật khách quan, tức là phải xác định một cách
đầy đủ và chính xác các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội. Các tình tiết này
thơng thường có giá trị chứng minh về khách thể và mặt khách quan của tội phạm.
Quá trình chứng minh về vụ án hình sự là hoạt động tư duy của cán bộ điều
tra, truy tố và xét xử đối với các chứng cứ đã phát hiện, thu thập, đồng thời tiến
hành kiểm tra đánh giá chúng. Việc nghiên cứu thường được tiến hành bằng cả
phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, tức là từ những sự kiện riêng lẻ
đến những kết luận chung nhất, từ những luận điểm khái quát đến những kết luận cụ
thể đối với các tình tiết cụ thể, các dấu hiệu của hành vi phạm tội. Từ đó đi đến kết
luận về điều cần phải chứng minh.
3

Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lí luận chung v đ nh t i danh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 12.


9
Để xác định sự thật của vụ án một cách tồn diện, đầy đủ thì phải xem xét
hành vi phạm tội trên các mặt của các yếu tố cấu thành tội phạm trong một tổng thể,
không tách rời nhau. Cần phải thu thập, kiểm tra và đánh giá tất cả các chứng cứ thu

thập được bao gồm chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, chứng cứ trực tiếp, chứng
cứ gián tiếp… trên tinh thần trách nhiệm, trung thực, khách quan và khoa học.
Bước 2: Nhận thức đúng c c cấu thành t i phạm quy đ nh trong B luật
Hình sự có thể được p dụng
Bộ luật Hình sự của nước ta thể hiện ý chí của nhân dân ta đối với vấn đề
đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, là công cụ sắc bén của Nhà nước để bảo vệ
thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân. Khi xây dựng Bộ luật Hình sự, nhà làm luật đã đánh giá một
cách tồn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
đồng thời cân nhắc hiệu quả có thể đạt được trong việc đấu tranh đối với các hành
vi đó và quy định các loại chế tài tương ứng có thể áp dụng cho các hành vi này. Vì
vậy việc nhận thức đúng nội dung của Bộ luật Hình sự quy định về từng loại tội, về
từng tội phạm cụ thể có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc định tội danh.
Bộ luật Hình sự quy định và liệt kê tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã
hội thường xảy ra trong thực tế mà bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, đây chỉ là sự quy
định những dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất, thường lặp đi lặp lại
nhiều nhất của những hành vi ấy để điển hình và quy định chúng trong Bộ luật Hình
sự với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc của các cấu thành tội phạm cụ thể tương
ứng. Trong khi hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tế mn hình mn
vẻ, khơng hồn tồn giống nhau, có nhiều dấu hiệu khơng được phản ánh hết trong
các cấu thành tội phạm tương ứng của Bộ luật Hình sự hoặc có những dấu hiệu
cùng được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm khác nhau. Do đó, để định tội
danh đúng thì người tiến hành tố tụng phải lựa chọn đúng quy phạm pháp luật, đối
chiếu, so sánh chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của các cấu thành tội phạm được quy
định trong Bộ luật Hình sự với các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội thực
tế xảy ra.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, sau khi xác định đầy đủ các tình tiết của
vụ án, người tiến hành tố tụng phải xác định có tội phạm hay khơng, nếu là tội phạm
thì là tội gì, được quy định ở điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Người định tội
danh sau khi làm rõ các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội thực tế được

thực hiện thì dự kiến những cấu thành tội phạm có thể là căn cứ pháp lý áp dụng đối


10
với hành vi cụ thể đó và qua kiểm tra, đối chiếu, so sánh thì người định tội danh sẽ
chọn ra một cấu thành tội phạm trùng khớp nhất với các dấu hiệu của hành vi thực
tế xảy ra để làm căn cứ pháp lý áp dụng.
Trong quá trình định tội danh, người định tội danh cần phải nắm vững các
quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm cụ thể để áp dụng chính xác, đồng
thời phải hiểu rõ và áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về phần chung, đặc
biệt lưu ý các trường hợp dễ dẫn đến nhầm lẫn, thiếu sót trong khi định tội danh,
như là trường hợp như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm hoặc các
cặp cấu thành có quan hệ đặc biệt như cặp cấu thành tội phạm có quan hệ thu hút (ví
dụ: tội bn lậu tại Điều 153 Bộ luật Hình sự và tội mua bán trái phép chất ma tuý
qua biên giới tại điểm đ khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự), cặp cấu thành tội phạm
có quan hệ chung riêng (ví dụ: Tội giết người tại Điều 93 Bộ luật Hình sự và tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 95 Bộ luật Hình sự), cặp
cấu thành tội phạm có quan hệ chính phụ (ví dụ: tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình
sự và tại khoản 4 Điều 202 Bộ luật Hình sự)… Do đó, khi áp dụng pháp luật ngồi
việc trích dẫn điểm, khoản, Điều luật quy định tại phần tội phạm của Bộ luật Hình
sự thì đồng thời phải trích dẫn đầy đủ các quy định liên quan của phần chung Bộ
luật Hình sự mới có thể đánh giá đúng mức độ nguy hiểm, bản chất của hành vi
phạm tội.
Bước 3: X c đ nh sự phù hợp giữa c c dấu hi u thực tế và c c dấu hi u được
quy đ nh trong luật
Xuất phát từ bản chất của việc định tội danh là việc tìm kiếm sự đồng nhất,
sự phù hợp của các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện
với các dấu hiệu tương ứng của tội phạm đó được quy định trong quy phạm pháp
luật hình sự, thì chúng ta thấy rằng cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của việc

định tội danh. Quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và các tình tiết
thực tế của vụ án là hai nhóm hiện tượng được hợp nhất, thống nhất lại trong quá
trình định tội danh. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ và chính xác mối liên hệ giữa hành
vi được thực hiện và cấu thành tội phạm thì chúng ta có thể kết luận rằng trong khi
định tội danh đã xác định được chân lý khách quan, còn nếu như khơng thì định tội
danh là sai lầm.
Sau khi thu thập, đánh giá các chứng cứ, làm rõ các tình tiết thực tế của vụ
án, làm rõ các dấu hiệu đặc trưng của hành vi nguy hiểm cho xã hội thực tế đã xảy


11
ra, cán bộ điều tra, truy tố, xét xử tiến hành kiểm tra, xác định các dấu hiệu của
hành vi đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định ở chương nào của Bộ luật
Hình sự. Giai đoạn tiếp theo của việc định tội danh là làm sáng tỏ, so sánh, đối
chiếu, tìm kiếm sự đồng nhất giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong phần
các tội phạm của Bộ luật Hình sự, chỉ rõ cấu thành tội phạm cụ thể nào sẽ được áp
dụng: cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội
phạm giảm nhẹ trong một điều luật nào đó đã được lựa chọn. Ví dụ, khi xác định
được hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu thuộc chương XIV Bộ luật Hình sự, thì
cần phải xác định hành vi đó là cướp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản hay trộm cắp tài
sản … giả sử là tội cướp tài sản thì phải xác định thuộc trường hợp ở khoản 1, 2, 3
hay 4 của Điều 133 Bộ luật Hình sự.
Quá trình định tội danh phải trải qua ba giai đoạn như trên. Cả ba giai đoạn
đó có thể được thực hiện độc lập, cũng có thể được thực hiện một cách đồng thời
với nhau, không phân chia được trong hoạt động nhận thức của người định tội danh.
Hai giai đoạn đầu tiên là tiền đề cần thiết cho giai đoạn thứ ba, giai đoạn quyết định
việc định tội danh đúng hay sai. Thực hiện tốt ba giai đoạn nêu trên đảm bảo cho
việc định tội danh đúng.
Khi định tội danh chúng ta phải xem xét, đánh giá tất cả các tình tiết liên

quan đến khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của hành vi thực hiện
trong thực tế và so sánh các dấu hiệu đó với các dấu hiệu được quy định trong cấu
thành tội phạm tương ứng trong Bộ luật Hình sự. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, quá trình định tội danh được tiến hành theo các yếu tố của cấu thành tội
phạm và theo một trình tự nhất định từ khách thể đến mặt khách quan, sau đó đến
mặt chủ quan và cuối cùng là chủ thể.
Thực hiện định tội danh theo các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là phương
pháp khoa học của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Sử dụng phương
pháp này cho phép tiến hành việc so sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thực hiện với quy phạm pháp luật hình sự tương ứng đó khơng phải theo các dấu
hiệu ngẫu nhiên mà theo các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất đã được điển hình hố
trong pháp luật hình sự trên những cơ sở khoa học nhất định.
Như vậy, định tội danh là một quá trình nhận thức lơgic, một dạng hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự nhằm xác định sự thật khách quan trên cơ sở xác
định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực


12
hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong pháp
luật hình sự bằng những phương pháp khoa học và tiến hành thông qua những giai
đoạn nhất định.
- Ý ngh a của vi c đ nh t i danh
Nhà nước ta đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, việc chấp
hành nghiêm chỉnh, đúng đắn pháp luật là một trong những yếu tố góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền thành cơng. Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nên việc định tội danh đúng có ý nghĩa rất lớn
về pháp lý và về chính trị, xã hội.
Pháp luật hình sự của nước ta thể hiện ý chí về mặt nhà nước của nhân dân
ta đối với vấn đề đấu tranh và phịng ngừa tội phạm, là cơng cụ sắc bén của Nhà
nước để bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các

quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Khi xây dựng Bộ luật Hình sự, Nhà nước
cũng đã đánh giá một cách tồn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, đồng thời cân nhắc hiệu quả có thể đạt được trong việc đấu
tranh đối với các hành vi đó và quy định các loại chế tài tương ứng có thể áp dụng.
Vì vậy, việc tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của Bộ luật Hình sự trong việc định
tội danh để xác định đúng tội, đúng điều khoản áp dụng và hình phạt đối với tội
phạm là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà
nước về đấu tranh và phịng chống tội phạm, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Định tội danh đúng là một biểu hiện của việc
thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng đường lối chính trị và đúng ý chí
của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
hội, của Nhà nước và công dân.
Định tội danh đúng bảo đảm pháp chế, bảo đảm công bằng xã hội. Định tội
danh sai không chỉ làm cho việc quyết định hình phạt khơng đúng, khơng cơng bằng
mà cịn là sự áp dụng pháp luật khơng có căn cứ, làm oan người vơ tội, xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Việc định tội danh đúng
sẽ loại trừ việc kết án vơ căn cứ những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội
nhưng khơng vi phạm pháp luật hình sự, dẫn đến tình trạng oan sai. Đồng thời, định
tội danh đúng sẽ làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt đúng, áp dụng hình phạt
một cách cơng bằng đối với những người phạm tội. Đối với người bị kết án trên cơ
sở nhận thức tính cơng bằng của việc định tội danh, các biện pháp chế tài đối với
mình, họ sẽ hình thành ý thức chấp hành các biện pháp chế tài đó.


13
Định tội danh đúng có nghĩa là tuân thủ các quan điểm chỉ đạo trong pháp
luật hình sự về chính trị, xã hội và pháp lý về tội phạm, tuân thủ chính xác các quy
định của pháp luật hình sự, áp dụng Điều, khoản và điểm của Bộ luật Hình sự một
cách chính xác đối với hành vi phạm tội, phản ánh được sự đánh giá về pháp lý của
Nhà nước đối với tội phạm đã thực hiện.

Tuy nhiên, để áp dụng đúng pháp luật hình sự địi hỏi phải có những điều
kiện, tiền đề nhất định. Để định tội danh đúng, cơng bằng cần phải có những Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có trình độ ý thức pháp
luật cao và hiểu biết một cách đúng đắn các quy định của pháp luật, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước, tơn trọng các quyền và lợi ích của nhân dân. Ngồi ra,
cũng cần có những điều kiện chính trị, xã hội cần thiết để đảm bảo tính độc lập của
Tồ án, của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát khỏi những tác động, ảnh hưởng từ
bên ngoài, bảo đảm chỉ tuân theo pháp luật khi tiến hành tố tụng.
1.1.2. Chủ thể đ nh t i danh
Trong thực tiễn, việc định tội danh thường do cán bộ pháp lý được sự ủy
quyền của Nhà nước tiến hành. Bên cạnh đó, các cán bộ khoa học, tác giả bài báo,
sinh viên … cũng tiến hành định tội danh. Mặc dù việc định tội danh do ai tiến hành
cũng đều là thực hiện việc lựa chọn và so sánh các dấu hiệu của quy phạm pháp luật
với hiện tượng trong thực tế cụ thể làm cơ sở cho sự trùng hợp giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội với cấu thành một loại tội phạm cụ thể. Nhưng hậu quả của việc
định tội danh do mỗi loại chủ thể tiến hành lại khác nhau.
Khoa học luật hình sự chia định tội danh thành hai nhóm:
- Định tội danh chính thức: Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt
nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể
được Nhà nước ủy quyền thực hiện. Chủ thể của định tội danh chính thức là người
tiến hành tố tụng bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó
Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm. Những đánh giá, kết luận của chủ thể định
tội danh chính thức là cơ sở pháp lý để khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, là cơ sở để ra bản kết luật điều tra, bản cáo trạng và ra bản án.
- Định tội danh khơng chính thức: Định tội danh khơng chính thức là sự đánh
giá khơng phải về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội
cụ thể. Chủ thể định tội danh khơng chính thức là những người làm công tác nghiên



14
cứu thể hiện trong các cơng trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách giáo khoa,
bài báo, hoặc là luật gia, luật sư hay bất kỳ người nào quan tâm đến việc nghiên cứu
một vụ án hình sự cụ thể đưa ra những bình luận về vụ án đó trên phương diện định
tội danh. Định tội danh khơng chính thức không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên có liên quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện ý kiến, quan điểm
riêng của các chủ thể này. Đây là loại định tội có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
nghiên cứu pháp luật, như một phương pháp nhận thức luật pháp, góp phần tạo
thành dư luận xã hội về pháp luật.
Định tội danh ở góc độ tố tụng hình sự là hoạt động áp dụng pháp luật được
thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, từ khi khởi tố vụ án cho đến khi
xét xử nên chủ thể của hoạt động định tội danh bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm.
Bắt đầu từ khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án trong phạm vi quyền hạn của mình phải ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự (Điều 104 Bộ luật Tố tụng hình sự). Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ
thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Trong quá
trình điều tra vụ án, nếu cơ quan điều tra thấy có đủ căn cứ để xác định một người
đã thực hiện hành vi phạm tội thì ra quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị
can phải ghi rõ bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự.
Nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải
ghi rõ từng tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng (Điều 126 Bộ
luật Tố tụng hình sự). Sau khi kết thúc điều tra nếu có đầy đủ chứng cứ để xác định
bị can phạm tội thì cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Bản
kết luận điều tra trình bày diễn biến, hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng
minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề
nghị truy tố (Điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự). Chủ thể tiến hành định tội danh ở
giai đoạn này là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, ngồi
ra có cả Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thông qua việc

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tố tụng. Đây là giai đoạn đầu của tố tụng
hình sự nên việc định tội danh có đặc thù là phạm vi rất rộng, việc định tội danh này
mang tính chất sơ bộ, dự kiến, độ chính xác chưa cao dựa vào những thông tin ban
đầu làm căn cứ cho việc khởi tố (Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự), chứng cứ chưa


15
đầy đủ … đến khi kết thúc điều tra, với chứng cứ đầy đủ, việc định tội danh sẽ
chính xác hơn.
Sau khi kết thúc điều tra, nếu cơ quan điều tra đề nghị truy tố thì hồ sơ được
chuyển sang Viện kiểm sát. Viện kiểm sát xét thấy đủ chứng cứ chứng minh bị can
có tội và q trình tố tụng đã tiến hành đúng quy định pháp luật thì ra quyết định
truy tố bị can trước Toà án bằng bản cáo trạng. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ
ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm
tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác
định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần
kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được
áp dụng (Điều 167 Bộ luật Tố tụng hình sự). Chủ thể tiến hành định tội danh ở giai
đoạn này là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Việc định
tội danh có phạm vi hẹp hơn do việc điều tra đã hoàn thành, các tài liệu, chứng cứ
cho việc truy tố, xét xử đã đầy đủ, việc định tội danh giới hạn lại căn cứ vào các tài
liệu, chứng cứ đã được điều tra.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên
tồ có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra việc truy tố có căn cứ hay khơng và tuỳ
từng trường hợp phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ. Cơ sở quan trọng nhất để ra một trong
bốn quyết định nêu trên là định tội danh và kiểm tra việc định tội danh của Viện
kiểm sát có đúng khơng. Trường hợp Tồ án mở phiên tồ xét xử thì phải ra bản án.
Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác

định có tội và chứng cứ xác định khơng có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay
khơng và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình
sự (khoản 3 Điều 224 Bộ luật Tố tụng hình sự). Nếu sau khi xét xử sơ thẩm, bản án
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thì trong các giai đoạn này bản án sơ thẩm sẽ được kiểm tra và có thể bị huỷ,
sửa nếu bản án khơng xét xử đúng người, đúng tội. Chủ thể tiến hành định tội danh
ở giai đoạn này là Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên
giữ quyền cơng tố tại phiên tịa và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát thực
hiện việc kháng nghị. Việc định tội danh có phạm vi hoạt động hẹp vì Tồ án cấp sơ
thẩm chỉ được định tội danh đối với chủ thể về những hành vi theo tội danh bị Viện
kiểm sát truy tố tuân thủ giới hạn xét xử tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự; cũng


16
như phạm vi xét xử phúc thẩm, giới hạn quyền hủy, sửa bản án tại Điều 241, Điều
249, Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự, hoặc thẩm quyền của Hội đồng giám đốc
thẩm, Hội đồng tái thẩm tại Điều 285, Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó
hội đồng xét xử khơng thể định lại tội danh nếu có sai sót mà chỉ có thể hủy án để
điều tra lại hoặc xét xử lại.
1.1.3. Cấu thành t i phạm là cơ sở ph p l của đ nh t i danh
“Cấu thành t i phạm là tổng hợp những dấu hi u chung có t nh đặc trưng
cho loại t i phạm cụ thể được quy đ nh trong Luật Hình sự” 6
Định tội danh là quá trình đối chiếu những tình tiết thực tế của tội phạm đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành một loại tội phạm nhất định. Tội
phạm là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể,
mặt chủ quan. Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, thế nhưng mỗi yếu tố lại
có ý nghĩa riêng và có thể tách ra nghiên cứu một cách độc lập tương đối trong mối
quan hệ với các yếu tố khác.
Cấu thành t i phạm là cơ sở ph p l duy nhất của vi c đ nh t i danh, là mơ
hình pháp l có c c dấu hi u cần và đủ để truy cứu tr ch nhi m hình sự 7.

Theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng đều là thể
thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài
và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể xâm hại
hoặc nhằm xâm hại đến những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu
tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính trị - xã hội của tội
phạm. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau và tổng hợp lại
cùng quyết định tính nguy hiểm của tội phạm.
Với khái niệm trên, các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có những đặc
điểm sau:
- Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm phản ánh tính đặc trưng điển hình
của tội phạm.
Bởi vì, cấu thành tội phạm khơng đề cập tới tất cả các dấu hiệu, đặc điểm của
tội phạm ấy, mà nó chỉ đề cập tới các dấu hiệu điển hình nhất, thường lặp đi lặp lại

6

Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Vi t Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội, tr. 84.
7
Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lí luận chung v đ nh t i danh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 76.


17
nhiều nhất trong các hành vi phạm tội cùng loại đó. Đó là những dấu hiệu tối cần
thiết cho những hành vi mà nhà làm luật đã dự trù mô hình tội phạm trong điều luật.
Do đó, có thể nói “cấu thành t i phạm là mơ hình kh i qu t, trừu tượng mang t nh
khoa học gồm những dấu hi u chung, cơ bản nhất của t i phạm cùng thu c m t
loại Đó là những dấu hi u điển hình và có t nh lặp đi, lặp lại ở tất cả những hành
vi phạm t i thu c loại đó”8.
- Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đều do luật định.

Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải được quy định trong luật hình sự.
Nhà nước quy định tội phạm trong luật hình sự bằng cách mô tả những dấu hiệu của
cấu thành tội phạm và quy định những dấu hiệu đó trong luật. Nói cách khác, cấu
thành tội phạm là định nghĩa về tội phạm cụ thể được nêu trong quy phạm pháp luật
phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, tồn tại như một mơ hình về tội phạm làm cơ
sở pháp lý cho việc định tội danh.
- Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có tính bắt buộc.
Để kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội của một người có phạm vào một
tội cụ thể nào hay khơng thì cần phải xác định hành vi đó đã thoả mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm hay khơng. Nếu hành vi đó thoả mãn tất cả các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm thì hành vi đó là tội phạm, cịn ngược lại nếu khơng
thoả mãn bất kỳ một dấu hiệu nào trong cấu thành tội phạm thì khơng có tội phạm
xảy ra.
Tại Điều 2 của Bộ luật Hình sự Việt Nam đã khẳng định: “Chỉ người nào
phạm m t t i đã được B luật Hình sự quy đ nh mới phải ch u tr ch nhi m hình
sự”. Do đó, xét về mặt pháp lý một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ
đã thực hiện một hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự. Muốn biết một hành
vi có được quy định trong Bộ luật Hình sự hay khơng và có phải chịu trách nhiệm
hình sự hay khơng, phải xác định hành vi đó có thoả mãn những dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm hay không. Nếu hành vi có đủ những dấu hiệu của một cấu
thành tội phạm được quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự thì có
nghĩa là hành vi đó là hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi đó phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Cấu thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong q trình định tội danh,
là cơ sở pháp lý của định tội danh. Bởi vì, bản chất của quá trình định tội danh là
8

Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lí luận chung v đ nh t i danh, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 12.



18
tìm sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra thực
tế với các dấu hiệu pháp lý quy định trong một cấu thành tội phạm cụ thể nào đó và
kết luận hành vi đó có phạm tội hay khơng, hành vi phạm tội được quy định ở quy
phạm pháp luật nào trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Muốn định tội
cho một hành vi cụ thể, người định tội danh phải căn cứ vào các cấu thành tội phạm
đã được quy định trong Bộ luật Hình sự. Việc xác định một người đã phạm tội gì
chính là q trình xác định hành vi của họ thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm nào trong Bộ luật Hình sự. Nếu các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện phù hợp với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy
định trong Bộ luật Hình sự thì hành vi sẽ được định tội danh theo cấu thành tội
phạm đó.
Tóm lại, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của quá trình định tội danh. Một
hành vi chỉ bị coi là tội phạm nếu hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của một cấu
thành tội phạm đã được quy định trong phần các tội phạm và các quy định phần
chung của Bộ luật Hình sự.
Quy ị
ủ B uật Hì sự ăm 1999 về t t m ô tà sả – ơ sở
p áp
ị t
1.2.1. h i ni m và c c dấu hi u ph p l của t i tham ô tài sản
1.2.

Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển tiếng Việt, tham ô là “Lợi dụng quy n hạn
hoặc chức tr ch để ăn cắp của công”9. Tham ô gắn liền với quyền lực công, vấn đề
“tham quan ô lại” triều đại nào cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt.
Ngay sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ban hành sắc lệnh số 223 - SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về Tội
biển thủ cơng quỹ với hình phạt rất nghiêm khắc, đây được xem là văn bản quy
phạm pháp luật đầu tiên về tội tham ô tài sản. Quan điểm của Hồ Chí Minh coi tham

ơ, lãng phí là tội lỗi nhất trong xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của tham ô là
lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam, tham ô là trộm cướp, đây chính là
hành vi tham ơ hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô
không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định
trong bộ máy nhà nước mà người dân bình thường, nếu "ăn cắp của cơng, khai gian,
lậu thuế" cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ơ.
9

Hồng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Vi t, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 1165.


19
Những văn bản quy phạm sau đó như Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 1970, Sắc lệnh 03-76 SLT qui định
tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa để xử lý tội phạm tham ô bằng các chế tài
nghiêm khắc. Bộ luật Hình sự đầu tiên năm 1985 dành một chương tội phạm
(Chương IV- Phần các tội phạm), qui định các tội xâm phạm sở hữu Xã hội chủ
nghĩa trong đó có Tội tham ơ và các hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản của người
có chức vụ, quyền hạn.
Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009)
quy định về Tội tham ô tài sản tại Điều 278 như sau:
“Người nào lợi dụng chức vụ, quy n hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có
tr ch nhi m quản l có gi tr từ hai tri u đồng đến dưới năm mươi tri u đồng hoặc
dưới hai tri u đồng nhưng thu c m t trong c c trường hợp sau đây, thì b phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã b xử l kỷ luật v hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã b kết n v m t trong c c t i quy đ nh tại Mục A Chương này, chưa
được xo n t ch mà còn vi phạm”.
Cũng như cơ cấu chung của một tội phạm, tội tham ô tài sản hợp thành bởi

bốn yếu tố: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của
tội phạm và chủ thể của tội phạm.
h ch thể t i tham ơ tài sản
Có nhiều quan điểm khác nhau về khách thể tội tham ô tài sản. Có quan điểm
cho rằng khách thể trực tiếp của tội tham ô tài sản là quan hệ sở hữu, còn khách thể
loại là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức 10; có quan điểm cho rằng tội tham
ơ tài sản có khách thể loại là hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan, tổ chức nhà
nước 11, còn khách thể trực tiếp là hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước trong
lĩnh vực quản lý tài sản và quan hệ sở hữu 12; hoặc khách thể của tội tham ô tài sản
là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức và quan hệ sở hữu tài sản.13
10

Đinh Văn Quế (2009), “Một số vấn đề về tội tham ô tài sản và những vướng mắc trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí Tịa án nhân dân kỳ 1, tháng 6-2009 (Số 11), tr. 36.
11
Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2013), Giáo trình luật hình sự Vi t Nam (Phần các t i phạm – Quyển 2),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 213.
12
Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2013), Giáo trình luật hình sự Vi t Nam (Phần các t i phạm – Quyển 2),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 224.
13
Trần Quang Sơn (2009), “Cần có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khách thể của tội tham ơ tài sản”, Tạp chí
Kiểm sát (Số 05 tháng 3/2009), tr 25.


20
Theo tác giả, tội tham ô tài sản trực tiếp xâm hại hai quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ, đó là xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức
và xâm phạm quan hệ sở hữu.
Tội tham ô tài sản là tội trực tiếp xâm hại đến hoạt động đúng đắn của cơ

quan, tổ chức, đây chính là khách thể trực tiếp cơ bản của tội phạm. Cơ quan, tổ
chức ở đây bao gồm cơ quan nhà nước (ví dụ: Văn phịng Ủy ban nhân dân), tổ
chức chính trị (ví dụ: Đảng Cộng sản Việt Nam), tổ chức chính trị - xã hội (ví dụ:
Đoàn Thanh niên Cộng sản), đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp (ví dụ:
Bệnh viện cơng lập), doanh nghiệp của Nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác
có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước (ví dụ: doanh nghiệp có vốn nhà
nước)14. Việc xác định khách thể trực tiếp cơ bản này thể hiện rõ nhất bản chất nguy
hiểm của tội phạm, đó là tội phạm xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, làm giảm
uy tín của cơ quan, tổ chức, làm cho hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức bị ảnh
hưởng nghiêm trọng.
Tội phạm còn xâm hại đến quan hệ sở hữu, đó là sở hữu nhà nước, đây là
khách thể trực tiếp, nhưng là khách thể phụ bởi vì trong hai khách thể mà tội phạm
xâm phạm thì khách thể đầu tiên quan trọng hơn.
Tính chất nguy hiểm của tội phạm tham ô tài sản chỉ được thể hiện đầy đủ
thông qua sự xâm phạm cả hai khách thể nêu trên. Việc xác định hai khách thể trực
tiếp của tội tham ơ tài sản cũng như vai trị của từng khách thể có ý nghĩa quan
trọng, làm cơ sở lý luận cho việc xác định đối tượng tác động cũng như các dấu
hiệu cấu thành khác của tội phạm tham ô.
Cũng như mọi tội phạm khác, tội tham ô tài sản cũng có đối tượng tác động.
Có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng tác động của tội tham ơ tài sản, có
quan điểm cho rằng nó bao gồm cả tài sản của công dân 15. Tuy nhiên, hầu hết các
quan điểm nghiên cứu cũng như thực tiễn đều cho rằng chỉ có tài sản nhà nước, tài
sản của cơ quan, tổ chức mới là đối tượng tác động của tội tham ơ tài sản. Theo
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, “Tài
sản b chiếm đoạt trong t i tham ơ tài sản có c c đặc điểm sau: … - Tài sản b
chiếm đoạt là tài sản của Nhà nước, của c c cơ quan, tổ chức” 16, hoặc thực tiễn xét
14

Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012), khoản 6 Điều 2.
Trần Công Phàn (2006), “Các tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát (Số

6 tháng 3-2006), tr 25.
16
Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên) (2013), Giáo trình luật hình sự Vi t Nam (Phần các t i phạm – Quyển 2),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 224.
15


×