Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Cam kết mở cửa thị trường thuốc lá trong WTO và một số hiệp định thương mại khu vực mà việt nam tham gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU

CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG THUỐC LÁ
TRONG WTO VÀ MỘT SỐ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG
MẠI KHU VỰC MÀ VIỆT NAM THAM GIA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU

CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG THUỐC LÁ
TRONG WTO VÀ MỘT SỐ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG
MẠI KHU VỰC MÀ VIỆT NAM THAM GIA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60380108

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Lê Thị Ánh Nguyệt

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Cam kết mở cửa thị trường thuốc lá trong
WTO và một số Hiệp định thương mại khu vực mà Việt Nam tham gia” là
cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân và chưa từng được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực.
Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ của TS. Lê Thị Ánh Nguyệt.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tác giả

Nguyễn Thị Thu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACFTA ASEAN China Free Trade
Area
AFTA
ASEAN Free Trade Area
AHTN

ASEAN Hamornized Tariff
Nomenclature
ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
ATIGA ASEAN Trade in Goods
Agreement
CEPT
Common
Effective
Preferential Tariff
FCTC

Framework Convention on
Tobacco Control
FTA
Free Trade Agreement
GATT
General Agreement on Tariffs
and Trade
HS
Hamornized System
MFN
Most Favoured Nation
NT
Nation Treatment
TPP
Trans
Pacific
Strategic
Economic
Parnership
Agreement
WCO
World Custom Organization
WHO
World Health Organization
WTO
World Trade Organization

Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc
Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN
Danh mục thuế quan hài hịa
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đơng
Nam Á
Hiệp định thương mại hàng
hóa ASEAN
Chương trình ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung
Cơng ước khung về kiểm soát
thuốc lá
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại
Hệ thống hài hòa
Đãi ngộ Tối huệ quốc
Đối xử quốc gia
Hiệp định Đối tác chiến lược
xuyên Thái Bình Dương
Tổ chức Hải quan thế giới
Tổ chức Y tế thế giới
Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG THUỐC LÁ CỦA

VIỆT NAM TRONG WTO ............................................................................ 8
1.1. Một số nội dung cơ bản về mở cửa thị trƣờng thuốc lá trong WTO
........................................................................................................................... 9
1.1.1. Phân loại hàng hóa của thuốc lá trong WTO ......................................... 9
1.1.2. Mở cửa thị trường thuốc lá trong WTO ................................................ 11
1.1.3. Một số tranh chấp liên quan đến việc mở cửa thị trường thuốc lá và
Điều XX(b) GATT ............................................................................................ 13
1.2. Cam kết của Việt Nam trong WTO về mở cửa thị trƣờng thuốc lá
............................................................................................................. ………25
1.2.1. Phân loại thuốc lá trong cam kết gia nhập của Việt Nam .................... 25
1.2.2. Các cam kết cụ thể về mở cửa thị trường thuốc lá ............................... 28
CHƢƠNG 2. ĐÁNH GIÁ CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG THUỐC
LÁ CỦA VIỆT NAM TRONG WTO SO VỚI MỘT SỐ HIỆP ĐỊNH
THƢƠNG MẠI KHU VỰC ......................................................................... 38
2.1. Cam kết mở cửa thị trƣờng thuốc lá của Việt Nam trong một số Hiệp
định thƣơng mại khu vực ............................................................................. 39
2.1.1. Cam kết của Việt Nam trong ASEAN .................................................... 39
2.1.2. Cam kết của Việt Nam trong ACFTA .................................................... 42
2.1.3. Vấn đề mở cửa thị trường thuốc lá trong đàm phán TPP .................... 44


2.2. Trƣờng hợp nghiên cứu về chính sách kiểm sốt thuốc lá của Úc và
những tiến triển có liên quan đến vấn đề mở cửa thị trƣờng thuốc lá
trong TPP ....................................................................................................... 53
2.3. Đánh giá các cam kết mở cửa thị trƣờng thuốc lá của Việt Nam trong
quá trình hội nhập ......................................................................................... 61
2.3.1. Đánh giá các cam kết mở cửa thị trường thuốc lá của Việt Nam......... 61
2.3.2. Kiến nghị cho việc thực thi các cam kết mở cửa thị trường thuốc lá của
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập ..................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới nền kinh tế, mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới,
đẩy mạnh quá trình hội nhập, vì sự phát triển các thoả thuận thương mại khu
vực và toàn cầu sẽ là những yếu tố quan trọng cho việc định hình sự phát triển
kinh tế ở nước ta.1 Trong những năm 1995 – 1996, Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations ASEAN2) và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area AFTA3) để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT4).
Bên cạnh đó, Việt Nam là một thành viên của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc (ASEAN China Free Trade Area - ACFTA) và Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc (ASEAN - Korea Free Trade Area AKFTA được ký năm 2004. Việt Nam cũng đã tham gia vào các Khu vực mậu
dịch tự do khác như, ASEAN – Nhật Bản (ASEAN – Japan Closer Economic
Partnership.– AJCEP) năm 2008, ASEAN – Úc, New Zealand (ASEAN –
Australia – New Zealand Free Trade Area – AANZFTA) năm 2009 …5 Thành
quả lớn nhất của quá trình hội nhập là Việt Nam đã đàm phán thành công để

1

[cập nhật ngày 25/10/2015]
2

ASEAN được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok. Đến nay ASEAN đã có 10
quốc gia thành viên, gồm Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia, Bruney (năm 1984), Việt
Nam (năm1995), Lào (năm 1997), Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm1999).

3

AFTA được thành lập tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV vào năm 1992 với mục tiêu biến ASEAN
thành một khu vực sản xuất cạnh tranh trên thị trường thế giới. Một trong những bước quan trọng để thực
hiện được mục tiêu trên là tạo thuận lợi cho thương mại nội khối thơng qua việc xóa bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan giữa các thành viên.
4

CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN để thực hiện cắt giảm và xóa bỏ thuế
quan xuống 0 – 5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế định lượng và hàng rào phi thuế quan, có tính đến
sự khác biệt về trình độ phát triển và thời hạn tham gia của các nước thành viên.
5

Xem thêm Danh mục các Hiệp định Thương mại tự do song phương và đa phương Việt Nam đã ký kết tại
website: [cập nhật ngày25/10/2015]


2

chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(World Trade Organization – WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007.6
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được biểu hiện bằng việc ký kết các
Hiệp định thương mại giữa các thành viên để điều tiết lưu lượng hàng hóa,
dịch vụ và cơng nghệ giữa các quốc gia. Các Hiệp định thương mại này ngày
càng có xu hướng điều chỉnh khơng chỉ các quy tắc liên quan đến lĩnh vực
hàng hóa và dịch vụ mà cịn được mở rộng, và từ đó sẽ có khả năng tác động
đến các chính sách đối nội gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.7 Do đó,
mở cửa thị trường hàng hóa khơng tách rời với vấn đề bảo vệ các lợi ích cơng
cộng quan trọng này ln là tiêu chí Việt Nam hướng đến trong q trình đàm
phán.

Cụ thể, gia nhập ASEAN cũng như các Hiệp định thương mại khu vực,
Việt Nam đã đàm phán để giữ lại một số dịng thuế khơng xóa bỏ thuế quan
hoặc với lộ trình rất dài, tập trung vào các nhóm hàng nhạy cảm, có ảnh
hưởng đến các lợi ích cơng cộng mà Nhà nước đang bảo vệ. Thuốc lá là một
trong những hàng hóa thuộc nhóm cam kết này vì mục tiêu cao nhất là vấn đề
tính mạng, sức khỏe của cộng đồng cũng như đảm bảo khả năng kiểm sốt
tình hình thuốc lá của Chính phủ.
Trong WTO, nhìn chung mức độ tự do hóa thương mại là thấp hơn so
với các Hiệp định thương mại tự do của Việt Nam nhưng đối với thuốc lá,
Việt Nam đã phải đưa ra cam kết mở cửa ngay từ thời điểm gia nhập để phù
hợp với luật chơi của tổ chức thương mại có tính tồn cầu này. Cụ thể là Việt
Nam phải cam kết dỡ bỏ biện pháp cấm nhập khẩu đối với thuốc lá và đưa ra
những cam kết cắt giảm thuế quan theo lộ trình nhất định.8 Điều này đã tạo ra
6

Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 Phê chuẩn Nghị định thư
gia nhập Hiệp định thành lập WTO của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 11 tháng 01 năm
2007 là ngày WTO nhận được được quyết định phê chuẩn chính thức này. Kể từ đây, Việt Nam trở thành
thành viên đầy đủ của WTO.
7

Katie Hirono, Fiona Haigh, Deborah Gleeson, Patrick Harris and Anne Marie Thow (2015), “Negotiating
Healthy Trade in Australia – Health Impact Assessment of the Proposed Trans Pacific Parnership
Agreement”, pp 1
8

Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, WT/ACC/VNM/48, đoạn 204


3


khơng ít những khó khăn cho cơng cuộc thực hiện chính sách kiểm sốt thuốc
lá của Chính phủ để bảo vệ sức khỏe cộng đồng cũng như ngành thuốc lá nội
địa.
Tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, thuốc lá vốn
khơng phải là mặt hàng khuyến khích sản xuất và tiêu dùng theo khuyến cáo
của Công ước Khung về kiểm soát thuốc lá (Framework Convention on
Tobacco Control - FCTC) của Tổ chức Y tế thế giới (World Health
Organization - WHO).9 Trên thực tế, mở cửa thị trường có thể làm tăng việc
tiêu thụ thuốc lá do sự xâm nhập của các loại thuốc lá ngoại nhờ việc cắt giảm
mạnh thuế quan và các rào cản khác đã đe dọa đến sức khỏe cộng đồng trên
tồn cầu10 vì những tác động tiêu cực to lớn mà thuốc lá đã, đang và sẽ gây ra
cho con người.11
Đặc biệt gần đây nhất, vấn đề mở cửa đối với thị trường thuốc lá trở
thành đề tài tranh cãi gay gắt hơn trong vòng đàm phán của Hiệp định đối tác
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement - TPP), khi một số quốc gia thành viên của TPP đề
xuất xóa bỏ 100% thuế nhập khẩu cho tất cả các loại hàng hóa, trong đó có
thuốc lá để tiến tới tự do hóa tồn diện đã vấp phải sự phản đối của một số
thành viên và nhiều tổ chức y tế trên thế giới.
Nhằm mục đích tìm hiểu rõ hơn Việt Nam đã cam kết những gì đối với
việc mở cửa cho thuốc lá trong ASEAN, ACFTA và trong WTO cũng như
những cam kết sắp tới trong TPP khi Hiệp định này được ký kết, tác giả chọn
9

Việt Nam ký gia nhập FCTC ngày 03 tháng 09 năm 2003, phê chuẩn ngày 17 tháng 12 năm 2004 và Công
ước này chính thức có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 17 tháng 03 năm 2005.
10

WHO, WTO (2002), “WTO Agreement & Public health – A joint study by the WHO and the WTO

Secretaria”, đoạn 125
11

Theo WHO, hút thuốc lá nguyên nhân gây ra các loại bệnh tật và tử vong. Sử dụng thuốc lá là nguyên nhân
chính gây bệnh tim mạch, khoảng 90% gây ra bệnh ung thư phổi và 75% gây ra bệnh viêm phế quản mãn
tính và khí thũng. Thuốc lá giết chết một nữa số người sử dụng nó với gần 6 triệu người mỗi năm. WHO đã
dự đốn rằng, nếu khơng có những hành động khẩn cấp, số người chết hàng năm sẽ tăng lên cho đến con số 8
triệu người vào năm 2030 và gần 80% trong một tỷ người hút thuốc lá của thế giới sống ở những quốc gia có
thu nhập thấp và trung bình. [ cập nhật ngày
25/10/2015]


4

đề tài “Cam kết mở cửa thị trường thuốc lá trong WTO và một số Hiệp định
thương mại khu vực mà Việt Nam tham gia” để thực hiện luận văn thạc sỹ
luật học, chuyên ngành Luật quốc tế. Với mong muốn mang lại những cái
nhìn tổng thể về các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường thuốc lá đã
có cũng như trong tương lai, để từ đó có những nhận xét, đánh giá và đưa ra
một số kiến nghị để góp phần thực thi đúng cam kết và kiểm sốt ổn định
được tình hình thuốc lá tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những cam kết mở cửa thị trường thuốc lá của Việt Nam trong WTO
và một số Hiệp định thương mại khu vực như ASEAN và ACFTA đã được đề
cập trong bài viết mang tên “Ngành thuốc lá Việt Nam và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế” của tác giả Hương Duyên, đăng trên Bản tin Vinataba số 02
năm 2009. Bài viết đã khái quát được những cam kết về mở cửa đối với thị
trường thuốc lá Việt Nam trong ASEAN, ASEAN mở rộng với Trung Quốc
và Hàn Quốc và trong WTO. Qua đó tác giả đã tóm lược những cam kết của
Việt Nam đối với thuốc lá trong các tổ chức này và tổng hợp những hành

động của nhà nước để thực thi các cam kết mở cửa.
Tuy nhiên, bài viết trên chỉ dừng lại ở việc liệt kê các cam kết của Việt
Nam trong các Hiệp định từ quá trình nghiên cứu của tác giả mà chưa đi sâu
để phân tích từng cam kết cụ thể của Việt Nam để có những so sánh, bình
luận hay đánh giá về mối tương quan giữa các cam kết này. Dù vậy, bài viết
này là một tài liệu đã nghiên cứu riêng biệt về các cam kết mở cửa thị trờng
thuốc lá tại Việt Nam trong WTO và một số Hiệp định thương mại khu vực
như ASEAN, ACFTA.
Về vấn đề về mở cửa đối với thị trường thuốc lá trong TPP có bài viết
“Thuốc lá và Hiệp định TPP‖ của tác giả Lê Việt Hoa – Tổ chức
Healthbridge Canada tại Việt Nam, đăng trên tạp chí điện tử Diễn đàn doanh
nghiệp ngày 13 tháng 12 năm 2013. Trong bài viết, tác giả đã bày tỏ những
quan ngại đối với việc thuốc lá sẽ xóa bỏ thuế quan trong tổ chức này vì điều


5

đó có thể làm gia tăng người hút thuốc và thách thức chính sách kiểm sốt
thuốc lá của chính phủ Việt Nam.
Đến thời điểm này, khi TPP đã kết thúc đàm phán và trong quá trình
chờ ký kết thì vấn đề liên quan đến tự do hóa tồn diện đối với thị trường
hàng hóa, trong đó có nội dung mở cửa cho thị trường thuốc lá được đặc biệt
quan tâm hơn cả về lộ trình, mức độ cắt giảm cũng như những chế độ đặc biệt
nên dành cho mặt hàng này sẽ được đặt ở mức nào để phù hợp với các quốc
gia thành viên vẫn đang rất được quan tâm. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu nội
dung của các bài nghiên cứu trước đó và những thơng tin sơ lược ban đầu về
kết quả đàm phán TPP, luận văn sẽ đưa ra cái nhìn tổng thể về các cam kết
của Việt Nam về mở cửa thị trường thuốc lá trong ASEAN, ACFTA và WTO,
để qua đó đánh giá các cam kết này và những vấn đề mở cửa cho thị trường
thuốc lá trong TPP.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm chỉ ra những cam kết cụ thể của
Việt Nam về mở cửa thị trường thuốc lá trong WTO và một số Hiệp định
thương mại khu vực gồm ASEAN, ASEAN – Trung Quốc và xung quanh các
vịng đàm phán TPP có liên quan đến thuốc lá. Từ đó, luận văn sẽ tiến hành
đánh giá về mức độ mở cửa thị trường thuốc lá giữa WTO với các Hiệp định
thương mại khu vự này và có những kiến nghị cho chính sách kiểm soát thuốc
lá tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề mở cửa thị
trường thuốc lá trong khuôn khổ của Hiệp định Chung về Thuế quan và
Thương mại 1994 (General Agreement on Tariffs and Trade – GATT) và một
số Hiệp định thương mại khu vực gồm CEPT/ATIGA của ASEAN, ACFTA
cũng như các vấn đề về thuốc lá trong các vòng đàm phán cũng như bản tóm
tắt sơ bộ về TPP đã được một số thành viên cơng bố. Bên cạnh đó, tác giả cịn
dẫn chiếu đến một số tranh chấp có liên quan đến thực tiễn mở cửa đối với thị


6

trường thuốc lá của một số nước thành viên để có được những liên hệ cho
Việt Nam trong việc mở cửa thị trường này.
Thuốc lá trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là những hàng hóa
trong Chương 24 của Biểu CLX – Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phần
I - Thuế suất tối huệ quốc, Mục I – Hàng nông sản,12 tương ứng với Chương
24 trong trong Biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành của Việt Nam.13 Trong đó,
thuốc lá được chia thành các nhóm sau:
 2401 – Lá thuốc lá chưa chế biến; phế liệu thuốc lá
 2402 – Xì gà, xì gà nén hai đầu, xì gà nhỏ và thuốc lá điếu, chế
biến từ lá thuốc lá hoặc từ các chất thay thế lá thuốc lá

 2403 – Thuốc lá lá đã chế biến và các chất thay thế thuốc lá lá đã
chế biến khác; thuốc lá “thuần nhất” hoặc thuốc lá “hoàn
nguyên”; chiết xuất và tinh chất thuốc lá.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng xuyên suốt phương
pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp và so sánh. Sự kết hợp các phương pháp
này giúp hiểu rõ những cam kết của Việt Nam trong từng tổ chức để từ đó
đưa ra những đánh giá khách quan về các cam kết mở cửa của Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp tình huống (case study) để
nghiên cứu các vụ kiện cụ thể liên quan đến tranh chấp về mở cửa thị trường
thuốc lá đã xảy ra giữa các thành viên WTO để có những dẫn chứng cụ thể
cũng như là kinh nghiệm Việt Nam có thể nắm bắt được nhằm thực thi mở
cửa thị trường thuốc lá đảm bảo phù hợp với các nội dung cam kết.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn có ý nghĩa lý luận, đó là hệ thống được những quy định của
WTO và một số Hiệp định thương mại gồm CEPT/ATIGA, ACFTA về mở
cửa thị trường và những cam kết của Việt Nam trong các tổ chức này cũng
12

Xem thêm tại Phụ lục 1 của Luận văn

13

Xem thêm tại Phụ lục 3 của Luận văn


7

như những quan điểm đối với mục tiêu mở cửa tồn diện đối với thuốc lá
trong TPP. Từ đó sẽ đi đến những phân tích, đánh giá các cam kết của Việt

Nam trong việc mở cửa ngành thuốc lá và tác động của các cam kết này đến
tình hình kinh tế xã hội, chính sách kiểm sốt thuốc lá của Việt Nam.
7. Bố cục của đề tài
- Phần mở đầu
- Phần nội dung gồm 2 chương:
 Chương 1: Cam kết mở cửa thị trường thuốc lá của Việt Nam
trong WTO.

-

 Chương 2: Đánh giá cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam
trong WTO so với một số Hiệp định thương mại khu vực
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


8

CHƢƠNG 1. CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƢỜNG THUỐC LÁ CỦA
VIỆT NAM TRONG WTO
Thuốc lá vốn không phải là hàng hóa được khuyến khích sản xuất và
tiêu dùng vì những tác động tiêu cực của nó đến vấn đề sức khỏe cộng đồng.
Tuy nhiên, thuốc lá lại hầu như không bị cấm sản xuất và tiêu thụ bởi nguồn
thu của ngành công nghiệp này đem lại cho các Công ty thuốc lá, các Chính
phủ cũng như đáp ứng thói quen tiêu dùng của một bộ phận dân cư. Vì vậy,
trong thương mại quốc tế, thuốc lá cũng khơng nằm ngồi tiến trình hội nhập.
Theo đó, thuốc lá cũng phải tn thủ quy luật chung của mở cửa thị trường là
cắt giảm thuế quan và xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan trên cơ sở các
nguyên tắc nền tảng của WTO là MFN và NT để tiến tới mục tiêu tự do hóa
thương mại.14

Chính vì vậy, để trở thành thành viên của WTO thì khơng chỉ Việt Nam
phải có những cam kết mở cửa cho thị trường thuốc lá mà các thành viên khác
cũng đã phải mở cửa thị trường này khi gia nhập. Tuy nhiên, vì mục tiêu bảo
vệ sức khỏe cộng đồng cũng như các mục đích bảo hộ thị trường thuốc lá nội
địa mà trong quá trình thực thi các cam kết gia nhập, khơng ít các thành viên
của WTO đã có những hành động mạnh mẽ để kiểm sốt tình hình thuốc lá,
các biện pháp này được biện minh theo trường hợp ngoại lệ được phép của
GATT. Từ đó, đã nảy sinh khơng ít những tranh chấp về mở cửa thị trường
thuốc lá giữa các thành viên WTO.
Cam kết mở của thị trường thuốc lá của Việt Nam trong WTO được
biểu hiện bằng việc dỡ bỏ biện pháp cấm nhập khẩu đối với thuốc lá điếu và
xì gà tại thời điểm gia nhập, chỉ áp dụng các biện pháp phi thuế quan được
phép bảo lưu. Bên cạnh đó, Việt Nam đã đưa ra những cam kết cắt giảm thuế
quan với mức độ và lộ trình tương ứng với từng nhóm sản phẩm thuốc lá theo
hệ thống phân loại hàng hóa của WTO. Để tìm hiểu rõ hơn các quy định của
WTO về vấn đề mở cửa thị trường đối với thuốc lá và cam kết cụ thể của Việt
Nam trong lĩnh vực này, Chương 1 sẽ tiến hành giải quyết các vấn đề sau đây.
14

Nguyên tắc MNF và NT được ghi nhận tại Điều I và Điều III GATT


9

1.1. Một số nội dung cơ bản về mở cửa thị trƣờng thuốc lá trong WTO
1.1.1. Phân loại hàng hóa của thuốc lá trong WTO

Các cuộc đàm phán GATT/WTO không chỉ đem đến kết quả áp dụng
các quy tắc chung cho tất cả các thành viên mà còn bao gồm các cam kết cụ
thể được thực hiện bởi chính mỗi thành viên đó. Trong lĩnh vực thương mại

hàng hóa, các cam kết này được liệt kê trong văn bản có tên gọi là ―Biểu nhân
nhượng‖.15 Biểu nhân nhượng này phản ánh các nhượng bộ thuế quan và các
cam kết khác mà các thành viên đã đưa ra trong bối cảnh của các cuộc đàm
phán. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, các nhượng bộ và cam kết còn liên
quan đến hạn ngạch thuế quan, hạn chế trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong
nước.
Phần chính trong Biểu nhân nhượng là Phần I – Thuế suất Tối huệ
quốc, trong đó chứa đựng cái được gọi là ―thuế quan ràng buộc‖, đây là mức
thuế tối đa mà một thành viên cam kết với các thành viên khác. Một khi mức
thuế là ràng buộc, một thành viên không thể tăng mức thuế này cho một loại
hàng hóa nhập khẩu từ các thành viên khác. Thuế quan ràng buộc được ghi
nhận theo từng dòng thuế cụ thể khi các nhân nhượng được thực thi. Các dòng
thuế này được dựa trên Hệ thống hài hòa. Mỗi dịng thuế trong Biểu nhận
nhượng chứa đựng các thơng tin về số dịng thuế, mơ tả sản phẩm, thuế suất
ràng buộc, thời gian thực hiện, quyền đàm phán ban đầu và các khoản phí
khác.16
Trong lĩnh vực mở cửa thị trường, WTO thường xuyên hợp tác với
WCO. Sự hợp tác này liên quan đến việc phân loại hàng hóa trên cơ sở Hệ
thống hài hòa (Harmonized System – HS17). Điều II GATT không thiết lập
15

Xem thêm tại Điều II GATT 1994

16

Dayong Yu (2008), “The Harmonized System – Amendments and their impact on WTO members’
schedules”, Economic Research and Statistics Division – WTO, pp 7
17

Hệ thống hài hòa HS là một Danh mục hàng hóa quốc tế được phát triển bởi Tổ chức Hải quan thế giới

(WCO) trên cơ sở Công ước Quốc tế về Hệ thống Điều hịa mơ tả và Mã hóa hàng hóa (Hazmonized
Commodity Description and Coding System). Cơng ước này được gọi tắt là Công ước HS, do WCO thơng
qua tại Brussel năm 1983 và có các lần sửa đổi vào các năm 1992, 1996, 2002, 2007 và 2012. Công ước HS
ra đời là công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho hệ thống hài hịa mơ tả và mã hóa hàng hóa được khả thi trên thực


10

một Danh mục cụ thể nên các thành viên đã sử dụng HS để làm tiêu chuẩn
trong lĩnh vực phân loại hàng hóa.18 Do đó, trong WTO, việc phân loại hàng
hóa được dựa vào “Hệ thống hài hịa” của WCO.
Hệ thống này bao gồm khoảng 5.000 nhóm hàng được xác định bởi
một mã sáu chữ số, trong đó có thể chia nhỏ hơn nữa để phục vụ các yêu cầu
về quản lý hành chính và thống kê của các quốc gia.19 Hệ thống HS đã được
sử dụng bởi hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ để phân loại thuế hải quan và
thống kê các số liệu về thương mại quốc tế, hơn 98% số hàng hóa trong
thương mại quốc tế được phân loại dựa trên các HS.20
Hệ thống hài hịa bao gồm 21 phần và 91 chương,21 trong đó thuốc lá
thuộc Chương 24 với tên gọi ―Thuốc lá và nguyên liệu thay thế thuốc lá đã
chế biến‖.22 Theo cách phân loại của WCO, trong mỗi chương được chia nhỏ
theo cấp độ bốn chữ số và sáu chữ số. Cấp độ sáu chữ số được gọi là mã HS
(HS code) và kèm theo mơ tả cho từng loại hàng hóa tương ứng, chi tiết sáu
chữ số là nhỏ nhất theo Công ước. Thuốc lá trong Chương 24 của Công ước
HS được chia thành 03 nhóm bốn chữ số như sau:23
 2401: Lá thuốc lá chưa chế biến; Phế liệu thuốc lá
 2402: Xì gà, xì gà nén hai đầu, xì gà nhỏ và thuốc lá điếu chế biến
từ lá thuốc lá hoặc các chất thay thế lá thuốc lá
 2403: Lá thuốc lá đã chế biến và các chất thay thế lá thuốc lá đã chế
biến khác; Thuốc lá “thuần nhất” hoặc thuốc lá “hoàn nguyên”;
Chiết xuất và tinh chất thuốc lá.

tế, nhờ đó đã trở thành một hệ thống phân loại hàng hóa tồn cầu. Cơng ước HS hiện nay đã có 141 thành
viên. HS là cơng cụ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đảm bảo kết nối giữa các tác nhân thương mại
18

[cập nhật ngày 25/ 10/ 2015]

19

[cập nhật ngày 25/10/2015]

20

[cập nhật ngày 27/10/2015]

21

[cập nhật ngày 26/10/2015]

22

[cập nhật ngày 26/10/2015]
23

Xem thêm tại Phụ lục 3 của Luận văn


11

Với cách phân loại này, theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO thì
thuốc lá thuộc nhóm các sản phẩm nơng nghiệp.24 Như chúng ta đã biết, nông

nghiệp vốn là mặt hàng nhạy cảm trong thương mại vì có rất nhiều yếu tố về
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đã tác động đến chính sách mở cửa đối
với nó. Điều này cịn đặc biệt hơn đối với thuốc lá, khi mà nó là một sản
phẩm nơng nghiệp có khả năng gây ra các loại bệnh tật và tử vong cho người
sử dụng trực tiếp và gián tiếp. Và theo khuyến cáo của WHO, hầu hết các
thành viên của WTO đều có những chính sách kiểm sốt mạnh mẽ đối với
thuốc lá khi chấp nhận mở cửa thị trường đối với loại hàng hóa này nhằm mục
đích bảo vệ các lợi ích cơng cộng quan trọng, cân bằng lợi ích giữa kinh tế
với sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, có nhiều vấn đề được quan tâm khi mở cửa
thị trường thuốc lá trong WTO.
1.1.2. Mở cửa thị trường thuốc lá trong WTO

Trong WTO, mở cửa thị trường hàng hóa có nghĩa các thành viên nhập
khẩu phải cam kết về việc cắt giảm thuế quan và xóa bỏ các biện pháp phi
thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu từ các thành viên khác. Các cam kết thuế
quan đối với mỗi hàng hóa được ghi nhận trong Biểu nhân nhượng thuế quan
quan đối với hàng hóa của mỗi thành viên. Những biểu nhân nhượng này thể
hiện rằng trong các cam kết không áp dụng mức thuế cao hơn mức ―ràng
buộc‖, các biện pháp phi thuế quan được tuân theo những thỏa thuận cụ thể
của WTO.25
Theo đó, mở cửa thị trường thuốc lá cũng được hiểu là việc giảm bớt
các rào cản về vật chất và thủ tục để thuốc lá của các thành viên có thể tiếp
cận thị trường nước nhập khẩu một cách thuận lợi, đảm bảo dựa trên các
nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Không phân biệt đối xử trong
WTO dựa trên hai nguyên tắc là nguyên tắc là Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử
24

Điều 2 Hiệp định nông nghiệp quy định: ―Hiệp định này áp dụng đối với các sản phẩm trong danh mục tại
Phụ lục 1 của Hiệp định này, sau đây được gọi là sản phẩm nông nghiệp‖. Theo Phụ lục này, nông sản được
xác định là tất cả các sản phẩm được liệt kê từ Chương I đến Chương XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một

số sản phẩm thuộc các Chương khác trong Hệ thống HS.
25

[cập nhật ngày 27/10/2015]


12

quốc gia (NT), hai nguyên tắc này là nền tảng của WTO đối với thương mại
hàng hóa.
Theo nguyên tắc MFN, thành viên nhập khẩu phải dành cho thuốc lá
nhập khẩu từ các nước thành viên khác sự đối xử không phân biệt với nhau.
Cụ thể là mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau
những ưu đãi nhất. Nếu một thành viên cho một thành viên khác được hưởng
lợi nhiều hơn thì đối xử đó phải được dành cho tất cả các thành viên còn lại
của WTO. Ngoài ra, nước nhập khẩu phải đảm bảo dành cho thuốc lá đến từ
các nước thành viên của WTO sự đối xử ngang bằng với thuốc lá trong nước
theo ngun tắc NT, tức khơng có sự phân biệt đối xử giữa thuốc lá nội địa và
thuốc lá nhập khẩu sau khi đã hoàn thành các thủ tục hải quan, như là việc
thành viên nhập khẩu không được áp dụng thuế và phí nội địa, các quy định
và yêu cầu liên quan đến hoạt động kinh doanh thuốc lá trên thị trường nội địa
để bảo vệ sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, để giảm bớt gánh nặng cho các thành viên về thực hiện
nghĩa vụ mở cửa thị trường, Điều XX GATT đã ghi quy định về việc áp dụng
các ngoại lệ chung. Theo đó, có những trường hợp cụ thể để các thành viên
WTO có thể được làm khác đi hoặc không thực hiện một số quy định của
GATT nhưng không được theo cách tạo ra công cụ phân biệt đối xử độc đoán
hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau, hay tạo ra một sự hạn
chế trá hình với thương mại quốc tế.26
Trong các ngoại lệ chung được ghi nhận tại Điều XX GATT, thì một

biện pháp “cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật
hay thực vật” theo đoạn (b) đã cho phép các thành viên có thể áp dụng các
biện pháp chính sách khơng phù hợp với GATT nhưng phải là ―cần thiết‖ để
thực hiện mục tiêu này. Để xác đinh một biện pháp là ―cần thiết‖ nhằm mục
đích bảo vệ cuộc sống và sức khỏe con người theo Điều XX(b) GATT thì đó
là một q trình đánh giá rất nhiều yếu tố bởi cơ quan giải quyết tranh chấp,
trong đó có sự đóng góp của các biện pháp và tác động của các biện pháp đó
26

Xem thêm Đoạn mở đầu Điều XX GATT


13

đối với thương mại quốc tế. Sau khi phân tích các điều này mà mang lại kết
luận rằng biện pháp này là cần thiết, kết quả này phải được xác nhận bằng
cách so sánh với các biện pháp khác có thể thay thế mà ít hạn chế thương mại
khi cung cấp một biện pháp tương đượng để đạt được các mục tiêu theo
đuổi.27
Như vậy, một ngoại lệ chung được ghi nhận tại Điều XX(b) GATT đã
thừa nhận một―biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người‖ để các bên
có thể thi hành hay áp dụng trái với các nguyên tắc của WTO mà không bị coi
là vi phạm nghĩa vụ. Từ ghi nhận này, các thành viên đã vận dụng vào cơng
cuộc kiểm sốt thuốc lá của quốc gia mình trong thời kỳ hội nhập. Vì khi đã
chấp nhận mở cửa bằng việc cắt giảm thuế nhập khẩu mà khơng được phép
tăng trở lại, cũng như phải có nghĩa vụ xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan
khác, thì ngoại lệ theo Điều XX(b) là một căn cứ quan trọng để biện minh cho
các hành động của mỗi thành viên.
Thực tiễn đã có nhiều thành viên WTO ban hành những chính sách
kiểm sốt thuốc lá nghiêm ngặt, thậm chí là cấm nhập khẩu đối với thuốc lá từ

các thành viên khác với nhiều mục đích khác nhau, nhưng mục đích ―để bảo
vệ sức khỏe cộng đồng‖ ln là lý do để họ cho rằng biện pháp đó là “cần
thiết‖ theo quy định của Điều XX(b) GATT. Cũng từ đó, đã dẫn đến nhiều
tranh chấp xoay quanh vấn đề này đã được giải quyết bởi cơ quan giải quyết
tranh chấp trước WTO theo GATT 194728 và trong GATT/WTO.
1.1.3. Một số tranh chấp liên quan đến việc mở cửa thị trường thuốc lá và
Điều XX(b) GATT

Số liệu thống kê các vụ kiện có liên quan đến mở cửa thị trường thuốc lá
trước WTO và từ khi WTO thành lập đến nay cho thấy, đã xảy ra 03 tranh
chấp theo GATT 1947 và đã có 11 tranh chấp theo GATT 1994 giữa các
27
28

[cập nhật ngày 27/10/2015]

GATT 1947 là tiền thân của GATT 1994. Theo GATT 1947, nội dung của các ngoại lệ chung theo Điều
XX cũng đã được ghi nhận như của GATT 1994. Vì vậy, trong quá trình mở cửa thị trường, các thành viên
của GATT 1947 cũng đã vận dụng để biện minh cho chính sách kiểm sốt thuốc lá của mình là ―cần thiết‖
theo Điều XX(b) GATT 1947.


14

thành viên. Trong đó, có những tranh chấp đến nay vẫn chưa có phán quyết
của Ban hội thẩm. Trong các tranh chấp này, có những vụ điển hình cho việc
mở cửa thị trường thuốc lá với vấn đề bảo vệ tính mạng và sức khỏe con
người theo ngoại lệ của GATT.29
1.1.3.1. Vụ kiện Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc
lá (DS10)


Ngày 22 tháng 12 năm 1989, Hoa Kỳ yêu cầu tham vấn với Thái Lan
xuất phát từ việc Chính phủ nước này đã duy trì biện pháp cấm nhập khẩu
thuốc lá nhưng vẫn cho phép bán thuốc lá trong nước theo Đạo Luật Thuốc lá
năm 1966.30 Hoa Kỳ khiếu nại rằng biện pháp hạn chế nhập khẩu này không
phù hợp với Điều XI của GATT 1947 về "Loại bỏ Các hạn chế định lượng"
và Thái Lan không thể biện minh bằng ngoại lệ cho phép trong Điều XX(b)
GATT 1947 liên quan đến các biện pháp “cần thiết để bảo vệ cuộc sống và
sức khỏe của con người‖.
Thái Lan và Hoa Kỳ tham vấn với nhau không thành công nên ngày 3
tháng 4 năm 1990, Ban Hội thẩm đã được thành lập để giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết, các bên đã lập luận để bảo vệ quan điểm như sau:
i)

Lập luận của Thái Lan

Một là, Thái Lan cho rằng việc hạn chế nhập khẩu thuốc lá là một phần
của một chính sách tồn diện để kiểm sốt việc sử dụng thuốc lá của quốc
gia.31 Hành động này được chứng minh bằng các mục tiêu đảm bảo sức khỏe
cộng đồng nhằm giảm việc tiêu thụ thuốc lá có hại cho sức khỏe. Do đó, một
lệnh cấm nhập khẩu là biện pháp duy nhất có thể bảo vệ sức khỏe cộng đồng
29

Xem thêm thống kê các vụ kiện này tại Phụ lục 4 của Luận văn

30

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 1

31


Với sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ, Thái Lan đã thông qua những hành động bao gồm nhưng
khơng giới hạn các chính sách sau để kiểm sốt thuốc lá: (i) Thơng qua một chương trình quốc gia tồn diện
để kiểm sốt việc sử dụng thuốc lá; (ii) Thành lập một Ủy ban quốc gia về kiểm soát việc sử dụng thuốc lá để
thực hiện chương trình quốc gia; (iii) Áp đặt lệnh cấm quảng cáo trực tiếp và gián tiếp đối với thuốc lá trên
tất cả các phương tiện truyền thông; (iv) Thông báo, tuyên truyền cho công chúng biết về sự nguy hiểm của
việc hút thuốc; (v) Yêu cầu in luân chuẩn 7 cảnh báo về sức khỏe trên bao bì thuốc lá; (vi) Cấm hút thuốc lá
trên phương tiện công cộng, cơ sở y tế … [Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá,
DS10/R-37S/200, đoạn 24]


15

mà bất kỳ biện pháp nào khác, khi vẫn còn cho phép nhập khẩu thuốc lá đều
không hiệu quả.32
Hai là, Thái Lan cho rằng thuốc lá sản xuất tại Hoa Kỳ có thể độc hại
hơn thuốc lá của Thái Lan. Lý do là vì có một số loại hóa chất và các chất phụ
gia khác không xác định được sử dụng trong thuốc lá của Hoa Kỳ để bù đắp
cho lượng tar và nicotine thấp có thể làm cho chúng gây hại cho sức khỏe của
con người nhiều hơn thuốc lá của Thái Lan.33
Ba là, việc hút thuốc lá còn làm giảm mức sống, gia tăng bệnh tật, dẫn
đến việc hàng năm, Nhà nước Thái Lan đã phải chi hàng chục tỷ Đơ la để
trang trải cho các chi phí y tế. Kéo theo đó là làm giảm thu nhập thực tế và
ngăn chặn việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực con người và thiên nhiên.
Việc sản xuất thuốc lá khơng hồn tồn bị cấm ở Thái Lan bởi vì điều này có
thể dẫn đến việc sản xuất và tiêu thụ ma túy, cần sa nó cịn độc hại hơn thuốc
lá.34
Cần phải lưu ý thêm rằng, ở Thái Lan, nhà nước giữ độc quyền trong
việc sản xuất thuốc lá vì Chính phủ cảm thấy cần có sự kiểm sốt chặt chẽ
như vậy. Bên cạnh đó, trường hợp ngoại lệ trong Điều XX(b) GATT 1947

phản ánh sự thừa nhận rằng bảo vệ sức khỏe cộng đồng là trách nhiệm cơ bản
của Chính phủ. Do đó biện pháp cấm nhập khẩu của Thái Lan được đảm bảo
bằng Điều XX(b) GATT. Nên mục tiêu chính của Đạo luật 1966 là để đảm
bảo rằng thuốc lá được sản xuất với số lượng vừa đủ để đáp ứng nhu cầu
trong nước.35
Bên cạnh đó, Thái Lan cịn cho rằng, Chính phủ nhiều quốc gia, bao
gồm Hoa Kỳ và Thái Lan, đã cố gắng để ngăn cản việc tiêu thụ và kiểm sốt
thuốc lá. Vì cạnh tranh có thể dẫn đến việc sử dụng tốt hơn các công nghệ tiếp
thị như quảng cáo, giảm giá và cải thiện chất lượng. Điều này có thể có những
32

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 27

33

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 28

34

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 21

35

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 21


16

tác động không mong muốn dẫn đến sự gia tăng tổng mức tiêu thụ, đặc biệt là
phụ nữ và thanh thiếu niên, điều đó đi ngược với mục tiêu sức khỏe cộng

đồng.36
Và, Mỹ dẫn đầu thế giới trong xuất khẩu thuốc lá và xuất khẩu đến
Châu Á đã tăng 75% trong chỉ một năm 1988. Từ những hậu quả cho sức
khỏe từ việc mở cửa thị trường thuốc lá là một luận cứ quan trọng trong chế
độ đối với nhập khẩu thuốc lá của Thái Lan. Thái Lan cho rằng đó là ―cần
thiết‖ và có các ý kiến tham khảo với các chuyên gia của WHO về kinh
nghiệm của một số nước đã thực hiện để mở cửa thị trường thuốc lá. Điều này
cho thấy rằng một khi thị trường đã được mở cửa, ngành công nghiệp thuốc lá
của Hoa Kỳ sẽ nỗ lực lớn để buộc các Chính phủ phải chấp nhận các điều
khoản và điều kiện mà có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con
người và chính phủ khơng có cơng cụ hữu hiệu để thực hiện chính sách kiểm
sốt tình hình thuốc lá trong nước.37
ii)

Quan điểm của Hoa Kỳ

Trong vụ kiện này, Hoa Kỳ đã đưa ra một số lập luận chính để bác bỏ
quan điểm của Thái Lan như sau:
Một là, Hoa Kỳ cho rằng ý định của những nhà soạn thảo GATT 1947
là các biện pháp mà các bên tìm cách để chứng minh theo quy định tại Điều
XX(b) cần phản ánh việc bảo vệ các sản phẩm tương tự trong nước. Lịch sử
soạn thảo Điều XX(b) chỉ ra rằng ngôn ngữ trong lời mở đầu của Điều XX
rằng các biện pháp này không được làm hạn chế về thương mại quốc tế có ý
nghĩa trong bối cảnh của Điều XX(b). Hoa Kỳ tiếp tục lưu ý rằng biện pháp
bảo vệ tương đương với một lệnh cấm nhập khẩu không liên quan đến thuốc
lá nội địa.38
Hai là, Hoa Kỳ trả lời rằng các mối nguy hại cho sức khỏe từ việc hút
thuốc lá là chủ đề trong nhiều văn bản trong mỗi quốc gia. Sự tồn tại của các
36


Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 27

37

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 27

38

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 22


17

mối nguy hại đó khơng phải là vấn đề thực sự của tranh chấp này. Hoa Kỳ
không tin rằng Thái Lan cấm nhập khẩu thuốc lá để phục vụ cho mục đích
bảo vệ sức khỏe cộng đồng hoặc một biện pháp như vậy là cần thiết để thực
hiện mục đích đó.39
Ba là, Hoa Kỳ từ chối rằng thuốc lá của họ làm gia tăng những mối
quan tâm đặc biệt về sức khỏe. Vì thuốc lá xuất khẩu từ Hoa Kỳ là sản phẩm
tương tự với loại được bán ở chính thị trường Hoa Kỳ.40
iii) Quan điểm của một số bên liên quan
Trong vụ kiện này, vấn đề tranh chấp giữa Thái Lan và Hoa Kỳ cũng
nhận được rất nhiều sự quan tâm của các tổ chức khác như Cộng đồng Châu
Âu và cả WHO, cụ thể:
Cộng đồng Châu Âu cho rằng, với tư cách là một nhà sản xuất và xuất
khẩu thuốc lá quan trọng, họ rất quan tâm trong việc mở cửa thị trường thuốc
lá của Thái Lan. Cộng đồng Châu Âu tin rằng chế độ cấm nhập khẩu thuốc lá
của Thái Lan đã tạo ra một cơ sở thực tế không phù hợp với Điều XI:1 và
không được bao hàm bằng các ngoại lệ theo XX(b) GATT. Cộng đồng Châu
Âu ủng hộ Hoa Kỳ trong việc yêu cầu Ban hội thẩm đề nghị Thái Lan loại bỏ

các hạn chế định lượng nhập khẩu thuốc lá và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
thuốc lá phù hợp với nghĩa vụ của Thái Lan theo Hiệp định chung.41
WHO thì nêu ra các dẫn chứng để chứng minh việc hút thuốc lá được là
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và bệnh tật có thể ngăn ngừa được ở các
quốc gia phát triển. Ở Thái Lan, việc hút thuốc lá liên quan đến ung thư là
không cao như những quốc gia đang phát triển khác và tương đối thấp so với
các nước giàu.42 WHO khẳng định có sự khác biệt giữa thuốc lá sản xuất tại
một quốc gia đang phát triển như Thái Lan và các nước phát triển, trong đó có
nhiều chất phụ gia và hương liệu để làm cho họ dễ dàng hơn để hút thuốc, đặc
39

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 29

40

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 31

41

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 49

42

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 51


18

biệt là phụ nữ và thanh thiếu niên. Tuy nhiên, WHO đã khơng tìm thấy bất kỳ
bằng chứng khoa học cho thấy rằng một loại thuốc lá là có hại cho sức khỏe

hơn so với thuốc lá khác.
iv) Phán quyết của Ban hội thẩm
Mặc dù Thái Lan đã đưa ra những lý do chính đáng, lấy mục đích bảo
vệ sức khỏe cộng đồng nhằm lý giải cho biện pháp cấm nhập khẩu thuốc lá
nhưng Ban hội thẩm kết luận rằng:43
Một là, Thái Lan đã thực hiện biện pháp cấm nhập khẩu thuốc lá của
nước ngoài nhưng vẫn cho phép bán thuốc lá nội địa thì khơng được coi là
―cần thiết‖ trong việc áp dụng các biện pháp của Thái Lan theo Điều XX
GATT, do đó khơng hợp lý theo Điều XX(b) trong việc cấp nhập khẩu thuốc
lá để bảo vệ sức khỏe cộng đồng như lý do mà Thái Lan lập luận.
Hai là, các hạn chế về nhập khẩu mà Thái Lan áp dụng chỉ được coi là
―cần thiết‖ theo quy định tại Điều XX(b) khi và chỉ khi không tồn tại một
biện pháp khác có thể thay thế nhưng vẫn tuân thủ Hiệp định GATT hoặc ít
mâu thuẫn với Hiệp định GATT hơn, và nếu tồn tại thì biện pháp đó phải có
thể được Thái Lan áp dụng một cách hợp lý để đạt được mục tiêu liên quan
đến chính sách bảo vệ sức khỏe cộng đồng của Thái Lan.
Đây là phán quyết đầu tiên của GATT 1947 được ban hành có liên
quan đến việc mở cửa thị trường đối với các sản phẩm thuốc lá. Vụ kiện này
đã thiết lập một tiền lệ quan trong đối với các quốc gia khác và đã gửi một
thông điệp cho các quốc gia thành viên rằng, họ có thể áp dụng chính sách
kiểm sốt thuốc lá chặt chẽ, miễn là các biện pháp nhằm mục tiêu bảo vệ sức
khỏe cộng đồng và không phân biệt đối xử giữa thuốc lá nội địa và thuốc lá
nhập khẩu. Các thành viên có thể thiết lập các chính sách kiểm sốt nghiêm
ngặt đối với thuốc lá để giảm tỷ lệ tử vong và các bệnh tật có liên quan đến
thuốc lá mà các chính sách đó phải đảm bảo là cần thiết và ít gây hạn chế

43

Thái Lan – Hạn chế nhập khẩu và thuế nội địa đối với thuốc lá, DS10/R-37S/200, đoạn 87



19

thương mại nhất để không cấu thành những vi phạm các cam kết thương mại
quốc tế.
1.1.3.2. Vụ kiện Hoa Kỳ - Thuốc lá đinh hương (DS 406)

Ngày 7 tháng 4 năm 2010, Indonesia yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ
xuất phát từ hành động Hoa Kỳ nghiêm cấm việc sản xuất và bn bán các
loại thuốc lá có chứa hương vị, bao gồm thuốc lá đinh hương của Indonesia
theo Điều 907 (a) (1) (A) của Đạo Luật Quản lý thuốc lá gia đình năm 2009
của Hoa Kỳ,44 một biện pháp kiểm sốt thuốc lá được thơng qua bởi Hoa Kỳ
với lý do bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Cuộc tham vấn không thành công nên
ngày 9 tháng 6 năm 2010, Indonesia đã yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để
giải quyết tranh chấp giữa hai bên.
i)

Lập luận của Indonesia

Một là, hành vi cấm thuốc lá có hương vị đinh hương nhưng vẫn cho
tiếp tục sản xuất và bán các loại thuốc lá khác mà Hoa Kỳ thực hiện là không
phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia theo Điều III.4 GATT 1994. Các biện
pháp đề cập không được biện minh bởi Điều XX GATT 1994 bởi vì nó đã tạo
ra một hạn chế trá hình thương mại quốc tế như là một biện pháp cần thiết để
bảo vệ sức khỏe con người.45
Hai là, ngay cả khi biện pháp này bằng cách nào đó ―cần thiết‖ để bảo
vệ thanh thiếu niên do hút thuốc lá, nó vẫn là một ―hạn chế trá hình‖ đối với
thương mại quốc tế trong phạm vi ý nghĩa của đoạn đầu tiên Điều XX. Theo
quan điểm của Indonesia là vì việc tạo ra một lệnh cấm cho hương vị đặc
trưng là đinh hương hầu như khơng có trong thuốc lá nội địa của Hoa Kỳ, bao

gồm những nhãn hiệu nỗi tiếng nhất với giới trẻ đã phải rời khỏi thị trường,
Hoa Kỳ có thể tạo ra sự xuất hiện của một biện pháp nghiêm khắc đối với
việc hút thuốc của giới trẻ mà không thực sự gât ra bất kỳ tác hại nào cho các
44

Đạo Luật kiểm soát và ngăn chặn hút thuốc lá gia đình 2009 (gọi tắt là Đạo Luật kiểm sốt thuốc lá) chứa
đựng những quy định chống việc hút thuốc và áp đặt nhiều hạn chế đối với các công ty thuốc lá cũng như
những chủ thể khác. Tất cả những yêu cầu của Đạo Luật này là nhằm làm hạn chế việc bán hàng, tiếp thị và
quảng cáo thuốc lá
45

Hoa Kỳ - Thuốc lá đinh hương, WT/DS406/R, đoạn 7.299


×