Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.15 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------------------------

ĐỒNG THỊ HƢƠNG

CÁC VẤN ĐỀ
PHÁP LÝ VỀ HÀNH VI CHỈ DẪN GÂY NHẦM LẪN

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CÁC VẤN ĐỀ
PHÁP LÝ VỀ HÀNH VI CHỈ DẪN GÂY NHẦM LẪN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐỒNG THỊ HƢƠNG
Khoá: 32

MSSV: 3220057

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN : Th.S NGUYỄN VĂN HÙNG



TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hỗ trợ của giáo
viên hướng dẫn là Th.S Nguyễn Văn Hùng. Các dữ liệu nêu trong khóa luận là trung thực và
chính xác. Các thơng tin mang tính chất tham khảo được trích từ các nguồn hợp pháp và
đáng tin cậy.

Tác giả khóa luận

Đồng Thị Hƣơng


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU: ...............................................................................................................1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI CHỈ DẪN
GÂY NHẦM LẪN ..........................................................................................................5
1.1. Một số vấn đề lý luận về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn: .................................5
1.1.1. Khái niệm về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn: .............................................5
1.1.2. Bản chất pháp lý của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:................................6
1.1.2.1. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh: ..................6
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. ...............9
1.1.3. Tác động tiêu cực của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn ..............................10
1.2. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật hiện hành: ..........12
1.2.1. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh: .12
1.2.1.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật cạnh tranh hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn:.............................................................................................................12

1.2.1.2. Đặc điểm của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo quy định của Luật cạnh
tranh: ...................................................................................................................13
1.2.2. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật về sở hữu trí tuệ: 21
1.2.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật sở hữu trí tuệ:..................22
1.2.2.2. Đặc trưng của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo quy định của Luật sở hữu
trí tuệ: ..................................................................................................................23
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI CHỈ DẪN GÂY
NHẦM LẪN ..................................................................................................................31
2.1. Thực tiễn hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn ở nƣớc ta: .......................................31
2.2. Một số hạn chế của pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm
lẫn ...............................................................................................................................36
2.2.1 Về vấn đề pháp luật áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh
khơng lành mạnh dƣới hình thức chỉ dẫn gây nhầm lẫn. .................................36
2.2.2. Về phạm vi các chỉ dẫn có khả năng bị gây nhầm lẫn: ...........................41


2.2.3. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: ..........................................42
2.2.4. Về chế tài xử phạt: ......................................................................................42
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh nói chung, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói riêng,. .............43
2.3.1. Định hƣớng hồn thiện:..............................................................................43
2.3.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải bảo đảm
tính thống nhất trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh không lành mạnh nói
chung. ..................................................................................................................43
2.3.1.2. Hồn thiện pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói riêng, pháp luật
cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với các
chế định pháp luật khác có liên quan..................................................................44
2.3.2. Những đề xuất góp phần hồn thiện pháp luật về cạnh tranh khơng lành
mạnh nói chung .....................................................................................................45
2.3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây

nhầm lẫn. ...............................................................................................................50
KẾT LUẬN: ..................................................................................................................55


LỜI NĨI ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cạnh tranh xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành, phát triển của
sản xuất hàng hố và trở thành đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay nước ta đã là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO thì cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn với mức độ
gay gắt hơn trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, là động lực thúc đẩy nền
kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh ln có tính hai mặt, dưới góc độ tích
cực, cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Song cạnh tranh cũng có những tác động tiêu
cực, thể hiện ở hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi nhu cầu lợi nhuận thúc dục và cám
dỗ con người đến những thủ đoạn cạnh tranh trái với các chuẩn mực thơng thường về đạo
đức kinh doanh và có thể gây ra những hậu quả bất lợi cho sự phát triển, xâm hại lợi ích
chính đáng của các doanh nghiệp khác và của người tiêu dùng 1. Chính vì vậy, cần phải có
sự điều tiết của Nhà nước thơng qua các chính sách và cơng cụ pháp luật can thiệp vào đời
sống thị trường để điều tiết các quan hệ cạnh tranh nhằm hướng chúng vận động và phát
triển trong một trật tự, bảo đảm sự phát triển công bằng và lành mạnh.
Mặc dù, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh chỉ mới tồn tại ở nước ta hơn
mười năm nay nhưng thực tiễn hoạt động cạnh tranh không lành mạnh lại diễn ra rất sôi
động và phong phú. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế xảy ra khá phức tạp
với rất nhiều dạng, gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả nền kinh tế.
Một trong số các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến nhất hiện nay là
hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Đó là việc sản xuất và cho lưu hành hàng hoá và sản phẩm
mà các dữ kiện và thông số về chúng là không trung thực. Được thực hiện với thủ đoạn
ngày càng tinh vi, thể hiện dưới nhiều dạng, trong đó tập trung vào hành vi gây nhầm lẫn về
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp. Những chỉ
dẫn bị gây nhầm lẫn là những yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại, nên đã có

khơng ít doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh nhằm thu lợi bất
chính trong kinh doanh. Mặc dù vậy, cho đến nay ở nước ta, pháp luật điều chỉnh về vấn đề
này vẫn còn chồng chéo, chưa chặt chẽ và còn nhiều bất cập, thiếu sót. Cùng với xu thế hội
nhập ngày càng sâu rộng, cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn với mức độ gay gắt
hơn trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và hành vi cạnh tranh khơng lành

1

Lê Danh Vĩnh, Hồng Xn Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà
Nội, tr. 48.

1


mạnh dưới hình thức chỉ dẫn gây nhầm lẫn sẽ ngày càng phức tạp hơn, gây khó khăn cho
doanh nghiệp và phương hại tới nền kinh tế.
Vì vậy, việc ban hành khung pháp lý để xác định và ngăn chặn hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn là hết sức cần thiết nhằm cải thiện môi trường pháp lý, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng, khuyến khích hơn nữa các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các chủ thể
kinh tế trong và ngoài nước. Với mong muốn tiếp tục nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện
pháp luật chống hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung và hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn nói riêng tại Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ dẫn
gây nhầm lẫn” làm đề tài khố luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Những năm qua, ở nước ta, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ngày càng
thu hút được sự quan tâm đông đảo của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực. Nhiều đề tài
khoa học ở những phạm vi và mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến cơ sở lý luận về
cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh, tìm hiểu nội dung pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh của một số nước trên thế giới, nêu ra yêu cầu và phương
hướng xây dựng pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật chống cạnh tranh khơng lành

mạnh nói riêng.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết và có hệ
thống các quy định của pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Một số bài viết trên các
báo, tạp chí về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn chỉ xoay quanh một số vụ việc cụ thể, mang
tính truyền thông. Các đề tài nghiên cứu về hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh chỉ dành
một phần nhỏ để nói về hành vi này trong đó đáng chú ý nhất là tài liệu tham khảo của tác
giả Lê Anh Tuấn. Cụ thể là cuốn sách Pháp luật về chống cạnh tranh khơng lành mạnh tại
Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia. Hà Nội năm 2009 và bài viết có tiêu đề “Hành vi chỉ
dẫn gây nhầm lẫn: Điều chỉnh theo pháp luật cạnh tranh hiện hành”, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp ( số 8/2007). Tuy nhiên, các bài viết trên cũng chỉ nêu sơ lược mà
chưa phân tích, làm rõ một cách đầy đủ, cụ thể cả về mặt lí luận cũng như các vấn đề pháp
lý về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu trên, cùng với những nội dung được trình bày tại
khố luận, tác giả hy vọng sẽ đưa ra cái nhìn tồn diện hơn về các vấn đề pháp lý liên quan
đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ
dẫn gây nhầm lẫn dưới góc độ của pháp luật chống hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh đối với hành vi sử dụng các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn ở nước ta, khoá luận đề
2


xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý để hạn chế tình trạng sử dụng các chỉ
dẫn gây nhầm lẫn trong kinh doanh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh cho tất cả các chủ thể, thu hút đầu tư trong và ngồi nước.
Từ mục đích nêu trên, khố luận có một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn: khái niệm, tính
chất và tác động tiêu cực của hành vi đối với nền kinh tế.
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh về hành vi chỉ dẫn

gây nhầm lẫn ở Việt Nam trong đó bao gồm các quy định của Luật cạnh tranh 2004 và một
số lĩnh vực pháp luật có liên quan.
- Khảo sát thực tiễn hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn trên thị trường hiện nay ở nước ta,
tìm ra nguyên nhân từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật chống cạnh
tranh khơng lành mạnh nói chung và chống hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của khố luận là các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ dẫn
gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu quả khi nó phù hợp với
thực tế, do vậy, đối tượng nghiên cứu của khố luận cịn là thực tiễn hành vi sử dụng chỉ dẫn
gây nhầm lẫn tại Việt Nam.
Khoá luận giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn.
Về khơng gian, khố luận chỉ nghiên cứu các vấn đề pháp lý về hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn trong pháp luật Việt Nam.
Về thời gian, khoá luận tập trung nghiên cứu pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây nhầm
lẫn trong giai đoạn từ năm 2004 ( năm ban hành Luật cạnh tranh) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, nghiên cứu về các vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn ở nước ta. Đồng thời, khoá luận cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh các quy định của pháp luật về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Những dữ kiện được
đề cập trong khoá luận được thu thập theo phương pháp quan sát, tìm hiểu từ thực tiễn cũng
như phân tích, tổng hợp các thơng tin từ báo chí, internet.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Là cơng trình nghiên cứu có hệ thống, tồn diện và sâu sắc khía cạnh pháp lý về hành
vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến chỉ dẫn gây nhầm lẫn, khố luận có những
đóng góp sau:

3



Các kết quả nghiên cứu của khố luận này có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo bổ sung vào pháp luật thực định. Một số ý kiến có trong đề tài có thể có giá trị tham
khảo đối với các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu về vấn đề này.
Với những nội dung được trình bày tại khố luận, phần nào có thể nhìn nhận được
một các toàn diện về những ảnh hưởng tiêu cực của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn đối với
nền kinh tế, doanh nghiệp bị vi phạm cũng như đối với người tiêu dùng. Nhận ra những
điểm bất cập, thiếu sót trong pháp luật nước ta khi điều chỉnh về hành vi cạnh tranh khơng
lành mạnh này, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật chống hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
tại Việt Nam.
7. Cơ cấu khố luận:
Ngồi phần mở đầu, lời cam đoan, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận gồm 2 chương:
Chương I: Tổng quan về pháp luật liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Chương II: Thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

4


CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN
HÀNH VI CHỈ DẪN GÂY NHẦM LẪN
1.1. Một số vấn đề lý luận về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
1.1.1. Khái niệm về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
Hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có thể xảy ra ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế nên các quy định điều chỉnh loại hành vi này khơng chỉ tồn tại trong Luật cạnh
tranh mà cịn có thể tìm thấy trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác như: pháp luật về giá, pháp
luật về khuyến mại, quảng cáo, sở hữu trí tuệ…Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn với tính cách
là một hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh cũng không phải là ngoại lệ. Hành vi này vừa vi
phạm pháp luật về cạnh tranh lại vừa vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Luật cạnh tranh quy định về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn tại Khoản 1 Điều 39 và cụ

thể hoá tại Điều 40. Theo đó, Luật cạnh tranh cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng
các thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ làm sai lệch
nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. Đồng thời,
nghiêm cấm việc kinh doanh hàng hố, dịch vụ có sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói
trên.
Luật sở hữu trí tuệ quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp tại Điều 130, trong đó có hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm
lẫn. Cụ thể:
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng,
chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng
hoá, dịch vụ.
Chỉ dẫn thương mại cũng được giải thích tại Khoản 2 điều này, bao gồm nhãn hiệu,
tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao
bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.
Như vậy, các chỉ dẫn được liệt kê tại Khoản 1 Điều 40 Luật cạnh tranh cũng thuộc
nội hàm khái niệm chỉ dẫn thương mại được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ. Do đó, có
thể khẳng định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là một trong số các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu cơng nghiệp vì hành vi này đồng thời vi phạm pháp luật
cạnh tranh lẫn pháp luật về sở hữu trí tuệ. Các chỉ dẫn có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu

5


dùng là các dữ liệu trùng hoặc tương tự với các chỉ dẫn thương mại thuộc sở hữu hợp pháp
của doanh nghiệp khác.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
như sau: Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực sở hữu công nghiệp, xâm phạm đến các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bằng cách
sử dụng các chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với các chỉ dẫn thương mại của doanh
nghiệp khác để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích
cạnh tranh.
Với tính cách là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn mang những đặc trưng cơ bản sau: Là hành vi do
doanh nghiệp tiến hành trong quá trình kinh doanh; trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh; liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp; gây thiệt hại hoặc có
thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng.
1.1.2. Bản chất pháp lý của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
Là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn vừa vi phạm pháp luật cạnh tranh vừa vi phạm pháp
luật sở hữu trí tuệ cho nên nó đồng thời mang bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
1.1.2.1. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Luật cạnh tranh định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Khoản 4 Điều
3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.” Từ đây có thể thấy, hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được nhận biết qua những dấu hiệu sau:
 Chủ thể thực hiện hành vi là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Theo
Điều 2 Luật cạnh tranh, doanh nghiệp được hiểu là mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh, có
nghĩa là bao gồm cả các chủ thể kinh doanh không đăng ký loại hình doanh nghiệp theo
Luật doanh nghiệp2. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh bao gồm các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề và các cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định
của Luật thương mại.

2

Cục quản lý cạnh tranh (2009), Bản tin Cạnh tranh, (05), tr. 24.

6


 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi được tiến hành trong quá trình
kinh doanh. Luật doanh nghiệp định nghĩa: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” 3. Như vậy, hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh có thể diễn ra ở mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi cơng đoạn của q trình sản
xuất nhưng đó phải là những hành vi nhằm đạt mục đích lợi nhuận hay cụ thể hơn là nhằm
mục đích cạnh tranh.
 Tính “khơng lành mạnh” của hành vi được xác định là “trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh”. Như thế nào được gọi là các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh? Hiện nay, chưa có bất kỳ quy định nào giải thích về thuật
ngữ này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy “các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”
sẽ được xác định trước hết dựa vào các quy định của pháp luật. Pháp luật được coi là chuẩn
mực, là thước đo của mọi hành vi do đó một hành vi trái với các quy định của pháp luật thì
khơng thể coi là lành mạnh được. Ngoài ra, vấn đề này còn được xác định dựa vào các tập
quán kinh doanh. Một hành vi tuy không trái với các quy định của pháp luật nhưng nếu nó
khơng phù hợp với thói quen kinh doanh lâu đời, được đông đảo cộng đồng doanh nghiệp
tn thủ thì hành vi đó cũng được coi khơng lành mạnh. Như vậy, tính khơng lành mạnh của
hành vi cạnh tranh chỉ được pháp luật Việt Nam quy định một chung chung, thiếu tính cụ
thể.
Điều 10 bis Cơng ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định: Bất kỳ
hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thơng lệ trung thực, thiện chí trong cơng nghiệp
hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh. Theo định nghĩa này thì
tiêu chí đánh giá tính lành mạnh hay khơng lành mạnh của một hành vi cạnh tranh là “các

thông lệ trung thực và thiện chí”. Như vậy, hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh đã đi
ngược lại nguyên tắc trung thực và thiện chí ở cả hai lĩnh vực cơng nghiệp và thương mại.
Đây là một tiêu chí khơng rõ ràng và khơng ổn định vì ở mỗi quốc gia sẽ có những khác biệt
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử phát triển của nó. Nhưng nếu xét
ở góc độ pháp luật quốc tế thì quy định này lại là một quy định hợp lý, nhằm bỏ ngỏ, cho
phép các quốc gia thành viên căn cứ vào điều kiện của nước mình mà quy định một cách cụ
thể trong pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc xác định tính khơng lành mạnh trong hoạt
động cạnh tranh lại tiếp tục được thể hiện một cách không rõ ràng trong pháp luật của nhiều
nước. Tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này được gọi là “thơng lệ thương mại trung thực”,
tại Tây Ban Nha và Thụy Sỹ là “ngun tắc ngay tình”, tại Italia là “tính chun nghiệp
đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là “đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu
3

Khoản 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005.

7


định nghĩa trong các văn bản pháp luật, các Tòa án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa
cạnh tranh lành mạnh là “các nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo
đức thị trường” 4. Như vậy, định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật
cạnh tranh của Việt Nam cũng tương tự với định nghĩa trong Công ước Paris và một số
nước có nền kinh tế thị trường phát triễn trên thế giới.
 Hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh cịn được xác định dựa trên hậu quả
của nó, đó là đã gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng. Như vậy, hậu quả của hành vi có
thể là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế hoặc tồn tại ở dạng tiềm năng nhưng nếu khơng
được ngăn chặn kịp thời thì thiệt hại tất yếu sẽ xảy ra. Hay nói cách khác thiệt hại xảy ra
trên thực tế không phải là dấu hiệu bắt buộc của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Ngồi ra, Luật cạnh tranh cịn liệt kê cụ thể các hành vi được coi là cạnh tranh

không lành mạnh tại Điều 39, bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh
doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất
chính. Cuối cùng, Khoản 10 Điều 39 quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khác thoả mãn các tiêu chí được xác định tại Khoản 3 Điều 4 Luật cạnh tranh. Đây là một
điều khoản mở, đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp của Luật cạnh tranh trước sự thay đổi
không ngừng của các quan hệ kinh tế. Quy định này cho phép cơ quan công quyền có thể bổ
sung các hành vi mới xuất hiện có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh và xét thấy cần điều chỉnh,
ngăn chặn. Trong trường hợp phát hiện hành vi cạnh tranh có biểu hiện khơng lành mạnh
mới xuất hiện trên thị trường thì cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ quan quản lý ngành hay
chính các doanh nghiệp, hiệp hội trong ngành có thể kiến nghị với Chính phủ ban hành văn
bản điều chỉnh để xử lý vi phạm.
Tóm lại, bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là mọi hành vi trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức trong kinh doanh, gây thiệt hại chủ yếu đến
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan.
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ từ lâu đã được coi là một dạng của quyền sở hữu tư nhân. Ngay
từ khi quyền sở hữu trí tuệ tồn tại dưới chế độ phong kiến tại các nước Châu Âu như Anh,
Pháp hay Cộng hồ Venise thì nó đã được coi là một loại “ tài sản” thuộc sở hữu tư nhân
mặc dù khi đó quyền sở hữu trí tuệ hồn tồn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người
đứng đầu vương quốc mà không phải trên cơ sở các quy định được áp dụng chung cho mọi
4

/>
8


chủ thể như ngày nay5. Tuy nhiên, quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ nó khơng giống hồn
tồn với quyền sở hữu đối với một tài sản thông thường. Sở hữu trí tuệ là việc sở hữu đối

với các tài sản trí tuệ - những kết quả từ quá trình tư duy, lao động sáng tạo của con người,
là những tài sản vơ hình, do vậy quyền sở hữu trí tuệ có những điểm đặc thù mà ở quyền sở
hữu các loại tài sản thông thường khác không có.
Nếu như đối với các tài sản thơng thường khác, chủ sở hữu có đầy đủ cả 3 quyền
năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt thì với quyền sở hữu trí tuệ quyền chiếm hữu của
chủ sở hữu khơng hề được đề cập. Sự khác biệt này nó xuất phát từ tính vơ hình của tài sản
trí tuệ, những tài sản vơ hình chủ yếu tồn tại dưới dạng các thông tin cho nên chúng ta
không thể nắm bắt, chiếm hữu nó được. Cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật
những thơng tin đó vì một khi được cơng bố, sử dụng thì bất cứ ai cũng có khả năng bắt
chước, sử dụng nó cho riêng mình. Đây chính là ngun nhân chính khiến một tài sản trí tuệ
phải được bảo hộ bằng cơ chế đặc biệt, khác với cách mà pháp luật bảo hộ các tài sản thơng
thường. Mặt khác, tài sản trí tuệ nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả
thì nó khơng những khơng bị hao mịn mà cịn có thể là tiền đề tạo thành những sản phẩm trí
tuệ cao hơn, đưa đến những giá trị vật chất to lớn cho chủ sở hữu cũng như cho tồn xã hội.
Vì vậy, sự hình thành, thay đổi và chấm dứt cũng như bảo hộ các quyền phát sinh từ tài sản
trí tuệ nó có những điểm khác biệt so với tài sản thơng thường khác. Đó là bảo hộ có mục
đích: bảo hộ nhằm thúc đẩy tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh doanh; bảo hộ có
chọn lọc: chỉ có các đối tượng thoả mãn các tiêu chuẩn do pháp luật đặt ra mới được bảo hộ,
chứ không phải bất cứ “thành quả lao động sáng tạo” nào cũng được bảo hộ; bảo hộ có thời
hạn: các quyền tài sản trong sở hữu trí tuệ chỉ được bảo hộ tối đa trong một thời hạn do
pháp luật quy định; và bảo hộ có điều kiện: việc bảo hộ phải được tiến hành đồng bộ với các
giải pháp nhằm tránh lạm dụng bảo hộ. Ngoài ra, việc sử dụng quyền sở hữu công nghiệp
không được đi ngược lại lợi ích xã hội hay cản trở các chủ thể sản xuất kinh doanh khác 6.
Như vậy, bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng là một
dạng của hành vi vi phạm quyền sở hữu. Khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm thì chủ sở
hữu có thể u cầu Tồ án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại nếu có hoặc tự bảo vệ quyền sở
hữu của mình bằng những biện pháp hợp pháp khác .
1.1.3. Tác động tiêu cực của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Cạnh tranh có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị

trường. Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn nhu
cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp
5
6

Cục quản lý cạnh tranh (2009), Bản tin Cạnh tranh, (05), tr. 26
Lê Nết ( 2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27-29.

9


dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức
để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Trong một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, để chinh phục khách hàng các doanh nghiệp phải tìm cách làm ra những sản
phẩm có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn, giá thành rẻ hơn.. đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của người tiêu dùng. Vì vậy, khách hàng sẽ nhận được những giá trị tối ưu nhất đối với
những đồng tiền mồ hôi, công sức của họ. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp sử dụng các thủ
đoạn cạnh tranh không lành mạnh thì khơng những ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu
dùng mà cịn xâm hại đến lợi ích chính đáng của doanh nghiệp khác, ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững của nền kinh tế. Trong phần này, tác giả sẽ phân tích về bản chất khơng lành
mạnh của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn thông qua những tác động tiêu cực của nó đối với
người tiêu dùng, các doanh nghiệp khác cũng như đối với môi trường cạnh tranh.
Đầu tiên là xâm phạm quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng. Hành vi chỉ dẫn
gây nhầm lẫn tuy được thể hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chúng
đều đưa đến hậu quả là làm cho người tiêu dùng nhận thức không đúng về hàng hoá, dịch
vụ. Với việc sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng các thông tin không trung thực gây nhầm lẫn
cho khách hàng, doanh nghiệp vi phạm đã khiến người tiêu dùng lầm tưởng rằng đây là
những sản phẩm có tiếng trên thị trường hay có xuất xứ từ chỉ dẫn địa lý có uy tín nên đã
mua chúng. Như vậy, doanh nghiệp vi phạm đã làm sai lệch nhận thức của khách hàng làm
cho họ không thể mua được sản phẩm mà họ mong muốn. Hơn nữa, nếu hàng hố có chỉ

dẫn gây nhầm lẫn là những loại hàng hố kém chất lượng, có chứa các chất độc hại, thuộc
các nhóm hàng dược phẩm hay thực phẩm thì hậu quả có thể là tính mạng, sức khoẻ của con
người.
Ngồi ra, hành vi này cịn xâm hại trực tiếp đến lợi ích chính đáng của các doanh
nghiệp khác trên thị trường. Đối với doanh nghiệp có chỉ dẫn thương mại bị lạm dụng: Khi
sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn với doanh nghiệp khác, doanh nghiệp vi phạm đã cố ý
dựa dẫm vào danh tiếng của sản phẩm hoặc uy tín của doanh nghiệp này để tiêu thụ sản
phẩm cho mình. Uy tín của tên thương mại, sự độc đáo của biểu tượng kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh ấn tượng, sự bắt mắt của bao bì sản phẩm…là kết quả của việc đầu tư tạo
dựng thương hiệu, gắn liền với ý thức của người tiêu dùng về uy tín của doanh nghiệp cũng
như chất lượng của hàng hố, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Những yếu tố này tạo nên
lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp sở hữu nó so với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Vì vậy, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn ln mang bản chất bóc lột, thể hiện ở việc hưởng lợi
một cách trái phép thành quả đầu tư của doanh nghiệp khác.
Thay vì thuyết phục khách hàng bằng cách tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt,
mẫu mã đẹp kết hợp với chiến lược quảng cáo, tiếp thị sản phẩm đến tay người tiêu dùng thì
doanh nghiệp vi phạm lại lạm dụng hình ảnh, danh tiếng sẵn có của doanh nghiệp khác với
10


việc tạo ra những sản phẩm có vẻ ngồi giống hệt hoặc tương tự với sản phẩm của đối tượng
để khách hàng tưởng rằng đây chính là các sản phẩm đã có tiếng trên thị trường hay ít nhất
là được sản xuất bởi những cơng ty đầy uy tín. Cho nên, hành vi của doanh nghiệp vi phạm
là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Hơn nữa, nếu những sản
phẩm sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn có chất lượng kém hay chứa các chất độc hại thì uy tín
của doanh nghiệp bị xâm phạm cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Đồng thời hành vi vi phạm
này của doanh nghiệp nó cịn xâm phạm quyền được bảo hộ thành quả đầu tư của doanh
nghiệp7.
Mặt khác, vì có chung nguồn khách hàng tiềm năng do đó nếu doanh nghiệp vi
phạm nhờ thực hiện hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn mà thu được nguồn lợi lớn bao nhiêu thì

đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó sẽ bị giảm doanh thu nhiều bấy nhiêu. Hàng hoá có
chỉ dẫn gây nhầm lẫn thường tồn tại dưới dạng hàng nhái, hàng giả và được bán với giá thấp
hơn hàng hố chính hiệu nên nguy cơ các doanh nghiệp làm ăn chân chính bị mất thị phần
là rất lớn.
Một vấn đề nữa, hành vi này tuy mang đến cho doanh nghiệp vi phạm một
nguồn lợi đáng kể nhưng nó không xuất phát từ thực lực, thế mạnh của doanh nghiệp mà
được tạo nên từ những hành vi lừa dối, không trung thực do vậy một khi bị phát hiện và bị
xử lý thì doanh nghiệp vi phạm sẽ khơng cịn chỗ đứng trên thị trường. Ngồi ra, hành vi
này là một hiện tượng tiêu cực của nền kinh tế, phá vỡ tính lành mạnh, cơng bằng của mơi
trường cạnh tranh cho nên nó cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách thu hút đầu tư
nước ngồi của nước ta.
Tóm lại, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn khơng chỉ chỉ xâm hại đến quyền lợi của
người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp khác
cũng như tính lành mạnh của môi trường cạnh tranh.
1.2. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật hiện hành:
Không phải cho đến bây giờ hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý…làm sai lệch nhận thức của
khách hàng về hàng hoá, dịch vụ mới được quy định và cấm thực hiện. Ngay từ năm 2000
hành vi này lần đầu tiên đã được quy định tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng
10 năm 2000 của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp (Nghị định số 54/2000/NĐ-CP) và sau đó được
pháp điển hố trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Hiện nay, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
liên quan đến hoạt động cạnh tranh chủ yếu được điều chỉnh bởi các văn bản sau:
7

Cụ thể xem thêm Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd, tr. 137.

11



- Luật cạnh tranh năm 2004;
- Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 .
1.2.1. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật cạnh tranh:
1.2.1.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật cạnh tranh hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn:
Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp ln cố gắng tìm mọi phương cách,
thủ đoạn nhằm lôi kéo khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình. Thực tế cho thấy,
rất nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng để cung cấp cho
họ những mặt hàng kém chất lượng bằng những thủ đoạn lừa dối, gây nhầm lẫn giữa hàng
hoá, dịch vụ của doanh nghiệp mình với hàng hố, dịch vụ của doanh nghiệp khác đã có
tiếng trên thị trường. Đến khi giao dịch mua bán đã thành công người tiêu dùng mới nhận ra
là mình bị nhầm lẫn thì họ lại khơng thể khiếu nại hay khởi kiện doanh nghiệp vì giao dịch
đó được hình thành trên cơ sở tự nguyện mà khơng hề có sự ép buộc nào từ phía các doanh
nghiệp. Trong khi chưa có Luật Bảo vệ người tiêu dùng thì việc xây dựng các quy phạm
mang tính cấm đốn trong Luật Cạnh tranh nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
trước những hành vi cạnh tranh thiếu trung thực này là rất cần thiết.
Mặt khác, có thể thấy hành vi sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn nhìn bề ngồi thì chỉ
xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng mà khơng hề liên quan gì đến quan hệ cạnh tranh
giữa các đối thủ nên Luật cạnh tranh không cần đề cập đến. Tuy nhiên, thông qua việc sử
dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn, doanh nghiệp đã lợi dụng uy tín, danh tiếng của doanh
nghiệp khác nhằm thu lợi trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong khi các doanh nghiệp
làm ăn chân chính phải bỏ khơng biết bao nhiêu công sức và tiền của cho việc tạo dựng
thương hiệu. Từ việc nâng cao tay nghề, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để làm ra
những sản phẩm có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn cho đến việc quảng bá
tiếp thị sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Thì một số
doanh nghiệp lại khơng làm gì khác ngồi việc gắn những chỉ dẫn y hệt hay tương tự với
các chỉ dẫn thương mại của các doanh nghiệp có tiếng trên thị trường vào hàng hố, bao bì
hàng hố, giấy tờ giao dịch…để khách hàng tưởng rằng đây là sản phẩm mà họ đã quen
dùng và chấp nhận nó. Đây là hành vi chiếm dụng trái phép thành quả lao động của người

khác. Hơn nữa, nếu như sản phẩm của các doanh nghiệp có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn
có chất lượng kém hơn hay chứa các thành phần độc hại thì uy tín của doanh nghiệp bị vi
phạm cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn khơng đơn
thuần xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng mà nó cịn ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Bằng việc tạo ra uy thế cạnh tranh giả tạo, doanh nghiệp vi phạm đã
thu hút được một lượng lớn khách hàng về phía mình, gây bất lợi cho các doanh nghiệp làm
ăn chân chính, từ đó phá vỡ trật tự cạnh tranh trên thị trường.
12


Đây chính là lí do mà pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh điều chỉnh
cả nhóm hành vi đơi khi không xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh mà chủ yếu gây tổn
hại đến người tiêu dùng, cụ thể ở đây là hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
1.2.1.2. Đặc điểm của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo quy định của Luật cạnh
tranh:
Điều 40 Luật cạnh tranh quy định: Cấm doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng
thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận
thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh và cấm kinh doanh
hàng hố, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn này. Như vậy, hành vi chỉ dẫn gây nhầm
lẫn trong Luật cạnh tranh có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi phải là doanh nghiệp. Theo Luật doanh nghiệp
năm 2005, doanh nghiệp được hiểu là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh8. Doanh nghiệp theo Luật cạnh tranh là các cá nhân, tổ chức
kinh doanh mà cá nhân kinh doanh thì bao gồm 2 loại cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá
nhân không đăng ký kinh doanh (cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xun thì khơng phải đăng ký kinh doanh). Như vậy, khái niệm doanh nghiệp ở đây rộng
hơn so với khái niệm doanh nghiệp được quy định trong Luật doanh nghiệp, nó khơng chỉ là
các tổ chức kinh doanh mà cịn bao gồm cả các cá nhân kinh doanh có hoặc khơng đăng ký

kinh doanh. Hay nói cách khác, bất kỳ ai tham gia vào q trình kinh doanh mà có hành vi
chỉ dẫn gây nhầm lẫn thì đều có thể bị xử lý bằng các chế tài của Luật cạnh tranh. Quy định
này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ hài hồ lợi ích của các chủ thể, hướng
tới mơi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Thứ hai, đối tượng của hành vi là tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý. Các chỉ dẫn được liệt kê tại Khoản 1 Điều 40 của Luật
cạnh tranh thực chất là các chỉ dẫn thương mại có liên quan đến đặc tính để nhận biết hàng
hố, dịch vụ9. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ vì ngồi những chỉ dẫn đã được liệt kê cịn có
nhiều thơng tin, chỉ dẫn khác về quan hệ giao dịch liên quan đến sản phẩm, dịch vụ có thể
gây ra ngộ nhận, nhầm lẫn cho người tiêu dùng nếu được biểu thị một cách khơng minh
bạch. Do đó, ngồi việc liệt kê các chỉ dẫn cụ thể, Luật cạnh tranh cịn có một quy định về
các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ.

8

Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005.
Lê Anh Tuấn (2005), “Một số quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh Việt Nam”, Nhà
nước và pháp luật, (10), tr. 54.
9

13


Luật cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc liệt kê cho nên để nhận dạng về các chỉ dẫn này
chúng ta phải vận dụng các quy phạm định nghĩa có trong các văn bản khác, đặc biệt là Luật
sở hữu trí tuệ.
Khoản 21 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ định nghĩa: “Tên thương mại là tên gọi của tổ
chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên
gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Sử dụng
tên thương mại vào mục đích kinh doanh là việc chủ sở hữu dùng tên thương mại để xưng

danh trong các hoạt động thương mại, thể hiện tên thương mại đó trong các giấy tờ giao
dịch, sản phẩm, hàng hố, bao bì hàng hố và quảng cáo. Chính vì vậy, doanh nghiệp
thường lấy tên doanh nghiệp làm tên thương mại.
Tuy nhiên, cần khẳng định tên thương mại không phải là tên doanh nghiệp. Tên
doanh nghiệp và tên thương mại, dù có nhiều điểm tương đồng trong cách đặt tên, nhưng
được bảo vệ theo hai góc độ hoàn toàn khác nhau. Trong khi tên doanh nghiệp được Luật
doanh nghiệp bảo vệ như một thành phần cấu thành tư cách pháp lý của doanh nghiệp thì
tên thương mại được Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ với tư cách là một đối tượng sở hữu trí tuệ.
Cơ sở xác lập quyền đối với tên doanh nghiệp và tên thương mại cũng khác nhau: quyền đối
với tên doanh nghiệp phát sinh khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cịn quyền sở hữu cơng nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử
dụng hợp pháp, mà không cần đăng ký với cơ quan nào10. Hơn nữa, tên doanh nghiệp chỉ
được bảo hộ trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong khi đó phạm vi bảo
hộ của tên thương mại được luật quy định là trong khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh
được hiểu là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh
tiếng. Hay hiểu một cách đơn giản, khu vực kinh doanh có thể là bất kỳ khu vực địa lý nào
mà doanh nghiệp phân phối sản phẩm đến. Như vậy, phạm vi bảo hộ đối với tên thương mại
có thể sẽ rộng hơn so với phạm vi bảo hộ tên doanh nghiệp.
Chính sự khác biệt này đã gây khơng ít khó khăn trong q trình thực thi pháp luật
trên thực tế. Cụ thể: Vì tên thương mại có phạm vi bảo hộ rộng hơn nên sẽ dẫn đến trường
hợp doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp
nhưng khi sử dụng tên gọi trong giấy đăng ký kinh doanh làm tên thương mại thì lại bị coi
là trái pháp luật, gây nhầm lẫn với tên thương mại của doanh nghiệp khác. Lúc này, việc bảo
hộ tên thương mại sẽ ảnh hưởng đến việc bảo hộ tên doanh nghiệp và ngược lại. Chỉ khi sửa
đổi các quy định về tên doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp sao cho phù hợp với cơ chế
bảo hộ tên thương mại trong Luật sở hữu trí tuệ thì tình trạng này mới được giải quyết triệt
để.
10

/>

14


Tóm lại, hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn về tên thương mại là hành vi sử dụng
bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã
được sử dụng trước cho cùng loại hàng hóa, dịch vụ hoặc cho hàng hoá, dịch vụ tương tự,
gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên
thương mại đó11.
“Khẩu hiệu kinh doanh” hiện vẫn chưa được giải thích trong bất cứ văn bản pháp
luật nào trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam. Trên thực tế, khẩu hiệu kinh
doanh còn được gọi là Sologan – nguyên nghĩa là tiếng hô trước khi ra trận của những chiến
binh Scotland. Và hiện nay trong quan hệ thương mại, nó là khẩu hiệu thương mại của một
doanh nghiệp và là tài sản vơ hình của doanh nghiệp dù nó có thể chỉ là một câu nói. Ðể có
được một khẩu hiệu kinh doanh hay, ngồi việc đầu tư về chất xám cịn phải có sự đầu tư về
quảng cáo, tiếp thị với những chiến lược dài hạn. Chính vì vậy, khi có được một câu khẩu
hiệu đứng được trong tâm trí khách hàng, câu nói đó đã trở thành một tài sản vơ giá được
vun đắp bằng thời gian, tiền bạc và uy tín của cơng ty12. Và khi đó chỉ cần nhắc đến câu
khẩu hiệu quen thuộc là khách hàng đã có thể liên tưởng ngay đến doanh nghiệp hay sự độc
đáo của sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Chính những lợi thế mà các khẩu hiệu
kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp nên đã có khơng ít doanh nghiệp sử dụng khẩu hiệu
kinh doanh trùng hoặc tương tự với khẩu hiệu kinh doanh của doanh nghiệp khác nhằm mục
đích cạnh tranh.
Có thể kể đến một số khẩu hiệu kinh doanh quen thuộc như: “Hãy nói theo cách của
bạn” của tập đồn viễn thông Viettel; “Nâng niu bàn chân việt” của Bitis; “Nghe là thấy”
của S-fone; “Khơi nguồn sáng tạo” của cà phê Trung Nguyên...
“Biểu tượng kinh doanh” cũng không hề được giải thích trong bất cứ văn bản pháp
luật nào. Theo từ điển tiếng việt thì biểu tượng là hình ảnh sáng tạo nghệ thuật có một ý
nghĩa tượng trưng trừu tượng. Hiểu một cách khái quát thì biểu tượng kinh doanh (logos của
doanh nghiệp) là hình vẽ riêng dùng làm hình ảnh tượng trưng cho doanh nghiệp, được in
trên các tấm card kinh doanh, trên các vật dùng trong hoạt động tiếp thị và quảng cáo, trên

bao bì sản phẩm và trên website của doanh nghiệp. Biểu tượng kinh doanh của một doanh
nghiệp là một khía cạnh của nhãn hiệu, được tạo thành từ những hình thù, màu sắc, kiểu chữ
hay hình ảnh khác với các biểu tượng kinh doanh của các doanh nghiệp khác trong một thị
trường tương ứng. Ví dụ, biểu tượng của cơng ty Apple là hình quả táo với vết cắn; công ty
cung cấp sản phẩm và dịch vụ đèn trang trí Đom Đóm là hình bóng đèn thơng thường với
nét cách điệu đồ hoạ.
11
12

Lê Anh Tuấn ( 2009), Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr. 76.
/>
15


“Bao bì” thường được hiểu là vỏ bọc bên ngồi của hàng hoá, được gắn trực tiếp lên
hàng hoá và bán cùng với hàng hoá cho người tiêu dùng, bao gồm bao bì chứa đựng và bao
bì ngồi. Bao bì chứa đựng là bao bì trực tiếp chứa đựng hàng hố, tạo ra hình, khối cho
hàng hố hoặc bọc kín theo hình, khối của hàng hố. Cịn bao bì ngồi là bao bì dùng để
chứa đựng một hoặc một số bao bì chứa đựng hàng hố13 . Một sản phẩm khi tung ra thị
trường điều đầu tiên thu hút sự chú ý của khách hàng chính là hình thức bề ngồi chứ khơng
phải là chất lượng của sản phẩm. Thực tế cho thấy, ở các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa
hiệu, gian hàng nào có trưng bày sản phẩm mẫu mã đẹp, lạ mắt sẽ thu hút khách hàng nhiều
nhất. Nắm được tâm lý này nhiều doanh nghiệp đã đầu tư rất lớn cho việc thiết kế bao bì và
kết quả là người tiêu dùng biết đến thương hiệu của họ nhiều hơn. Vì vậy, hành vi cạnh
tranh khơng lành mạnh dưới dạng lạm dụng sự độc đáo trên bao bì sản phẩm của doanh
nghiệp khác gây nhầm lẫn cho khách hàng cũng ngày càng gia tăng.
Chỉ dẫn địa lý lần đầu tiên được quy định tại Khoản 1 Điều 22 Hiệp định TRIPS:
“chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc
từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định
chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”. Theo pháp luật Việt Nam: “chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu

dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ
thể”14. Như vậy, chỉ dẫn địa lý có thể cho ta biết hàng hoá xuất xứ từ nơi nào, có nghĩa nó là
thơng tin chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý của hàng hố làm cho cơng chúng biết hàng hố đó
được bắt nguồn từ 1 quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương của một quốc gia cụ thể nào
đó. Được thể hiện dưới dạng từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh được thể hiện trên
hàng hố, bao bì hàng hố hay giấy tờ giao dịch liên quan đến việc mua bán hàng hoá. Và
tồn tại mối quan hệ giữa địa điểm xuất xứ và chất lượng của hàng hoá, hay cụ thể hàng hoá
ấy phải có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do nguồn gốc địa lý nói trên
quy định. Như vậy, không dừng lại ở ý nghĩa đơn thuần là giúp người tiêu dùng nhận biết
được xuất xứ địa lý của hàng hóa, chỉ dẫn địa lý cịn đóng vai trị tích cực trong việc liên hệ
đến chất lượng của sản phẩm, bao gồm những đặc điểm của sản phẩm mà chỉ có được do
nguồn gốc địa lý của nó, chẳng hạn như khí hậu, đất đai hoặc các phương thức sản xuất
truyền thống.
Cần khẳng định rằng, nội hàm của khái niệm chỉ dẫn địa lý khác với nội hàm khái
niệm tên gọi xuất xứ hàng hoá. Mục 4 phần II Thông tư liên tịch số 10/2000/ TTLT-BTMBTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả
quy định: "Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ
13

Khoản 2 Điều 3 Quy chế ghi nhãn hàng hố lưu thơng trong nước và hàng hố xuất khẩu nhập khẩu được ban hành
kèm theo Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính Phủ.
14
Khoản 22 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005.

16


của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất,
chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự
nhiên, con người, hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó". Nếu như với tên gọi xuất xứ hàng hoá, các
dấu hiệu mang tính chất của nước, địa phương là nơi xuất xứ của hàng hố khơng phải là tên

địa lý của nước, địa phương đó thì sẽ khơng phải là đối tượng được bảo hộ dưới danh nghĩa
tên gọi xuất xứ hàng hoá. Trong khi đối với chỉ dẫn địa lý, thông tin chỉ dẫn về nguồn gốc
địa lý của hàng hố có thể dưới dạng từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh được thể
hiện trên hàng hố hay giấy tờ giao dịch liên quan đến việc mua bán hàng hố 15. Ngồi ra,
mặc dù cả 2 khái niệm này đều yêu cầu chất lượng hàng hoá tương ứng phải đáp ứng được
những yêu cầu nhất định mà yêu cầu ấy gắn liền với địa điểm xuất xứ. Tuy nhiên, các yếu tố
thể hiện tính chất đặc thù của sản phẩm, hàng hoá mang tên gọi xuất xứ hàng hố rất đa
dạng, có thể là đặc trưng về chất lượng, về những thuộc tính khác của sản phẩm, đặc trưng
về điều kiện tự nhiên (khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn) hoặc là con nguời (bí quyết,
cơng nghệ sản xuất, chế biến, kỹ năng, kỹ xảo) và gắn với một khu vực địa lý có địa giới
xác định. Cịn tính chất đặc thù, riêng biệt của sản phẩm, hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý chủ
yếu từ những yếu tố độc đáo về địa lý như khí hậu, địa chất của khu vực địa lý mang lại.
Một chỉ dẫn địa lý là một địa danh mà uy tín, danh tiếng của sản phẩm đạt đến mức
đặc thù gắn liền với vùng địa lý đó thì chỉ dẫn đó được gọi là “tên gọi xuất xứ hàng hoá” 16.
Như vậy, có thể nói tên gọi xuất xứ hàng hố là một dạng đặc biệt của chỉ dẫn địa lý. Ví dụ
như nước mắm Phú Quốc; rượu vang Đà Lạt; cà phê Buôn Mê Thuột là tên gọi xuất xứ
hàng hoá đã được bảo hộ tại Việt Nam.
Chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước do vậy chỉ dẫn địa lý
không thuộc độc quyền của riêng tổ chức, cá nhân nào mà thuộc quyền sử dụng của tất cả
các cơ sở sản xuất đưa ra thị trường những sản phẩm độc đáo xuất phát từ những khác biệt
mà chỉ dẫn địa lý mang lại.
Để bảo vệ quyền sử dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý của các cơ sở sản xuất kinh doanh
và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, pháp luật Việt Nam cấm các hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn về chỉ dẫn địa lý sau: sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn
thương mại đang được bảo hộ của đối thủ cạnh tranh gây ấn tượng sai lệch về nguồn gốc địa
lý của hàng hoá; sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn thương mại
đang được bảo hộ cho những hàng hố trùng, tương tự hoặc có liên quan mà khơng đảm bảo
uy tín, danh tiếng của hàng hố mang chỉ dẫn địa lý đó, kể cả sử dụng dưới hình thức dịch

15


Lê Việt Tuấn ( 2004), Hồn thiện pháp luật VIệt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, Luận văn Thạc sĩ luật học, tr. 24.
16
/>
17


sang ngôn ngữ khác hoặc sử dụng kèm theo các từ ngữ như “phương pháp”, “kiểu”, “loại”,
“phỏng theo” hoặc các từ có ý nghĩa tương tự17.
Cần khẳng định, các chỉ dẫn thương mại bị vi phạm thuộc phạm vi điều chỉnh tại
điều này phải là những chỉ dẫn thuộc sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp hoặc đã được đang
kí bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, phương thức thực hiện hành vi là việc xâm hại đến tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý…của đối thủ cạnh tranh
thơng qua việc sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn hoặc kinh doanh các hàng hố, dịch vụ có
sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo quy định của Luật cạnh tranh bao gồm hai hành
vi vi phạm cụ thể, đó là hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn và hành vi kinh doanh hàng
hố, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Đối với hành vi sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương
mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác
theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hố, dịch vụ
nhằm mục đích cạnh tranh, doanh nghiệp được giả định là vi phạm đã sử dụng các chỉ dẫn
có nội dung trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp khác để gây
nhầm lẫn cho khách hàng. Để xác định hành vi đòi hỏi phải làm rõ một số vấn đề sau:
Trước hết là xác định chỉ dẫn cụ thể nào trong các chỉ dẫn sau bị vi phạm: tên thương
mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý…Với từng vụ việc
khác nhau chỉ dẫn bị vi phạm có thể sẽ khác nhau và điều này cần phải được làm rõ trong
quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây

nhầm lẫn. Sau đó là xác định khả năng gây nhầm lẫn của hành vi sử dụng tên thương mại,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý của doanh nghiệp vi
phạm, cụ thể là làm rõ khả năng làm sai lệch nhận thức của khách hàng. Sự sai lệch nhận
thức được thể hiện ra bên ngồi là tình trạng khơng phân biệt được đâu là sản phẩm chính
hiệu, đâu là sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn dẫn đến hậu quả làm cho khách
hàng không thể lựa chọn đúng sản phẩm mà họ muốn. Cuối cùng là xác định hình thức thể
hiện ra bên ngồi của hành vi: doanh nghiệp đã sử dụng các chỉ dẫn thương mại giống hệt
hoặc tương tự với chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp khác đang được pháp luật bảo hộ18.
Như vậy, khả năng gây nhầm lẫn với chỉ dẫn thương mại thuộc sở hữu hợp pháp của doanh
nghiệp khác là cơ sở để khẳng định đã có hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Tuy nhiên,
Luật cạnh tranh khơng hề có quy định nào định lượng về khả năng gây nhầm lẫn cho khách
17

Lê Anh Tuấn, tlđd, tr. 78.
Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình Luật cạnh tranh, NXB Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, tr. 173.
18

18


hàng nên sẽ rất khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật. Nếu các chỉ dẫn thương mại là
giống hệt nhau thì khơng cần phải bàn đến khả năng gây nhầm lẫn vì nó đã q rõ ràng
nhưng nếu các chỉ dẫn thương mại nó chỉ tương tự nhau thì khả năng gây nhầm lẫn sẽ phụ
thuộc vào cách hiểu của những người áp dụng pháp luật. Mà mỗi người sẽ có những cách
suy nghĩ và giải quyết vấn đề khác nhau nên tình trạng khơng thống nhất trong việc áp dụng
pháp luật là rất dễ xảy ra.
Đối với hành vi kinh doanh hàng hố, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, kinh doanh được định nghĩa: “Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư từ sản

xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Tuy nhiên, hành vi kinh doanh hàng hố, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn ở đây nó
chỉ được áp dụng đối với những doanh nghiệp tham gia vào q trình phân phối các sản
phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Đó là các tổng đại lý, đại lý, các cửa hàng bán
buôn, bán lẻ…những cơ sở này mặc dù biết sản phẩm có gắn các chỉ dẫn gây nhầm lẫn
nhưng vẫn làm trung gian giúp nhà sản xuất đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Chính
vì vậy, hành vi của các chủ thể này cũng phải bị nghiêm cấm nhằm ngăn chặn một cách triệt
để các hành vi cạnh tranh trên thị trường đồng thời hạn chế hậu quả có thể phát sinh đối với
người tiêu dùng từ hành vi trái pháp luật này.
Thứ tƣ, mục đích của hành vi là nhằm làm cho khách hàng nhầm lẫn giữa hàng hoá,
dịch vụ của doanh nghiệp mình với hàng hố, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Cho nên, để
đạt được mục đích, hàng hố, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải cùng trong một
thị trường với hàng hoá, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh hoặc cùng trên thị trường liên quan.
Thị trường liên quan là cơ sở để giới hạn thị trường nơi diễn ra các hoạt động cạnh tranh,
các doanh nghiệp khơng cùng thị trường liên quan thì không thể là đối thủ cạnh tranh của
nhau. Thị trường liên quan được cấu thành bởi 2 loại giới hạn cơ bản là giới hạn về sản
phẩm và giới hạn về phạm vi khơng gian địa lý, đó là thị trường sản phẩm liên quan và thị
trường địa lý liên quan. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hố,
dịch vụ có thể thay thế được cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, tức là các
sản phẩm này phải cùng phụng sự một mục đích của thị trường, có nhiều tính chất vật lí,
tính chất hố học, tác dụng phụ với người tiêu dùng giống nhau và có mức giá cả khơng q
chênh lệch mà người tiêu dùng có thể chấp nhận để sẵn sàng thay đổi thói quen tiêu dùng
của mình. Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng
hố, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác
biệt đáng kể với các khu vực lân cận.
Mặt khác, để gây nhầm lẫn cho khách hàng, doanh nghiệp vi phạm đã sao chép y
nguyên các chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp khác để gắn lên hàng hoá, dịch vụ do
19



mình sản xuất làm cho người tiêu dùng nghĩ đây là sản phẩm đích thực được sản xuất và
phân phối từ một chủ thể kinh doanh có tiếng. Doanh nghiệp cũng có thể thay đổi một số
chi tiết để tránh vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng vẫn đảm bảo gây nên sự nhầm lẫn cho
người tiêu dùng. Lúc này hai sản phẩm là khác nhau nhưng với những thơng tin mơ hồ về
hàng hố, dịch vụ người tiêu dùng rất dễ nhầm lẫn hay ít ra cũng nghĩ đây là sản phẩm của
cùng một chủ thể.
Tóm lại, mục đích của hành vi là nhằm làm cho khách hàng tưởng rằng hàng hố,
dịch vụ của doanh nghiệp mình là hàng hoá, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh để họ chấp nhận
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình bằng cách sử dụng các chỉ dẫn trùng hoặc tương
tự với chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp khác. Vì vậy, mặc dù luật không quy định
doanh nnghiệp bị vi phạm là doanh nghiệp có uy tín trên thị trường nhưng trên thực tế các
doanh nghiệp bị vi phạm hầu hết là các doanh nghiệp nổi tiếng, sản phẩm của họ được
người tiêu dùng ưa chuộng.
1.2.2. Điều chỉnh hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn theo pháp luật về sở hữu trí tuệ:
1.2.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật sở hữu trí tuệ:
Các đối tượng sở hữu công nghiệp là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong
thương mại, nên các đối thủ cạnh tranh có thể nghĩ đến việc xâm hại chúng bằng cách thực
hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh để thu lợi bất chính trong kinh doanh. Do vậy,
pháp luật phải thừa nhận cho các chủ thể kinh doanh quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh như là một nội dung của quyền sở hữu cơng nghiệp để đối phó với các loại hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh có thể gặp phải. Hơn một thế kỷ qua, quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh đã được thừa nhận là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu công
nghiệp, lần đầu tiên điều này đã được ghi nhận tại Hội nghị ngoại giao Brussels về sửa đổi
Công ước Paris bằng việc bổ sung Điều 10bis vào Công ước. Tại đây hành vi cạnh tranh
không lành mạnh lần đầu tiên được định nghĩa là bất kỳ hành động cạnh tranh nào trái với
thông lệ trung thực trong lĩnh vực công nghiệp hay thương mại đồng thời liệt kê các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh bị cấm19:
- Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ sở,
hàng hoá hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh.
- Những tuyên bố sai trái trong công việc kinh doanh nhằm làm mất uy tín của cơ sở,

hàng hố hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh.
- Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lừa dối
cơng chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục đích, hoặc số
lượng của hàng hố.
19

WIPO (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, tr. 130.

20


×