BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------
TRẦN THỊ GIANG
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÍ VỀ HIỆU LỰC CỦA
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại
TP HCM – 2012
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÍ VỀ HIỆU LỰC CỦA
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN THỊ GIANG
Khóa: 2008-2012 MSSV: 0855010043
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Để hồn thành được khóa luận này, ngồi sự nỗ lực của bản thân, tác giả còn
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ giáo viên hướng dẫn- Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh
Huyền (giảng viên Khoa Luật Thương mại). Từ việc lựa chọn đề tài, xây dựng đề
cương và định hướng về hình thức cũng như nội dung đến việc hồn thành khóa
luận, nếu khơng có sự giúp đỡ của cơ thì có lẽ đã khơng có được khóa luận này. Tuy
nhiên, sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn chỉ mang tính định hướng, chỉ dẫn; do
đó, tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những nội dung trong khóa luận. Tác
giả xin cam đoan đây là cơng trình do chính tác giả thực hiện và hồn thành. Mọi
trích dẫn và tham khảo từ bất kỳ nguồn nào trong khóa luận này đề đã được ghi chú
rõ ràng.
Tác giả
Trần Thị Giang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự 2005
BLDS 2005
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
BLTTDS 2004
Công ước về Công nhận và thi hành các quyết định Công ước New York 1958
của Trọng tài nước ngoài năm 1958
Luật mẫu của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Luật
Thương mại quốc tế (UNCITRAL) về Trọng tài Luật Mẫu UNCITRAL
quốc tế năm 1985
Luật Trọng tài thương mại 2010
LTTTM
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003
PLTTTM
Trách nhiệm hữu hạn
TNHH
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI ..............................................................................................................5
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận trọng tài ........................................5
1.1.1.
Khái niệm thỏa thuận trọng tài ............................................................5
1.1.2.
Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài .......................................................7
1.2.
1.1.2.1.
Tính tự nguyện của thoả thuận trọng tài ........................................7
1.1.2.2.
Tính độc lập của thoả thuận trong tài ............................................9
Phân loại và hình thức của thoả thuận trọng tài .........................................9
1.2.1.
Phân loại thỏa thuận trọng tài ..............................................................9
1.2.2.
Hình thức của thoả thuận trọng tài ....................................................12
1.2.3.
Giá trị pháp lí của thỏa thuận trọng tài ..............................................12
1.3.
Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài và hậu quả
pháp lí của thỏa thuận trọng tài .............................................................................17
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ “HIỆU LỰC
CỦA THỎA THUẬN TRỌNG TÀI” VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ..................23
2.1.
Tính độc lập của thoả thuận trọng tài trong mối quan hệ với hợp đồng ..23
2.2.
Điều kiện về chủ thể kí kết thoả thuận trọng tài ......................................33
2.2.1.
Loại chủ thể kí kết thoả thuận trọng tài .............................................34
2.2.2.
Năng lực hành vi của chủ thể kí kết thỏa thuận trọng tài ..................39
2.2.3.
Thẩm quyền của chủ thể kí kết thỏa thuận trọng tài .........................42
2.3.
Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài ......................................44
2.4.
Điều kiện về nội dung của thỏa thuận trọng tài .......................................46
2.4.1.
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại ...........50
2.4.2.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại ...............................................................................................53
2.4.3.
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật qui định được giải quyết
bằng Trọng tài ...................................................................................................55
2.5.
Yếu tố lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng
tài và yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu ............................................59
2.6.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. ............................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................66
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Pháp luật về trọng tài của Việt Nam hình thành và phát triển trong điều kiện
các Điều ước quốc tế về Trọng tài được các quốc gia có pháp luật về Trọng tài kí
kết từ rất sớm như: Cơng ước về Cơng nhận và thi hành các quyết định của Trọng
tài nước ngoài năm 1958 và Luật mẫu của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương
mại quốc tế (UNCITRAL) về Trọng tài quốc tế năm 1985. Trên cơ sở tiếp thu các
qui định của pháp luật quốc tế về Trọng tài, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003 ra đời đã tạo điều kiện cho phương thức Trọng tài định hình và phát triển ở
nước ta. Tuy nhiên, sau bảy năm phát huy hiệu lực, Pháp lệnh này đã thực sự bộc lộ
nhiều hạn chế (trong đó có những hạn chế đáng kể về vấn đề thỏa thuận trọng tài).
Chính vì vậy, mặc dù ở Việt Nam trong những năm qua, các Trung tâm trọng tài ra
đời nhưng lại chỉ nhận được rất ít sự quan tâm của các chủ thể có liên quan. Tuy
nhiên, tình trạng này đang có chiều hướng thay đổi theo hướng tích cực khi thực tế
một vài năm gần đây, xu hướng lựa chọn Trọng tài làm phương thức giải quyết
tranh chấp ngày càng gia tăng, điều này thể hiện ở thống kê của Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam (VCCI) hay của một số Trung tâm trọng tài có uy tín như
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)1,… Có thể nói đây là một tín hiệu tốt
cho việc phát triển hình thức Trọng tài ở nước ta trong tương lai. Sự ra đời của Luật
Trọng tài thương mại 2010 là một bước hoàn thiện đáng kể việc điều chỉnh pháp
luật đối với hoạt động trọng tài ở nước ta. Về cơ bản, Luật Trọng tài thương mại
2010 đã khắc phục được những khiếm khuyết và hạn chế trong các văn bản pháp
luật về Trọng tài trước đây (cụ thể là Pháp lệnh Trọng tài thương mại) mà chính
những khiếm khuyết, hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự
hấp dẫn của chế định Trọng tài trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại. Tuy nhiên, cùng với sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại
2010, vấn đề cần được quan tâm là làm thế nào để Trọng tài trở thành một trong
những phương thức giải quyết tranh chấp ưu việt bên cạnh phương pháp truyền
thống là Tịa án? Điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm thế nào để Phán quyết trọng
tài được đảm bảo thi hành trên thực tế? Muốn vậy, một trong những đòi hỏi cấp
thiết là phải sửa đổi qui định còn nhiều tồn tại về “hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài”. Bởi lẽ, thỏa thuận trọng tài là một trong những căn cứ quan trọng để Quyết
định trọng tài có hiệu lực thi hành trên thực tế; đối với những tranh chấp có yếu tố
nước ngồi, nó còn là điều kiện để một Quyết định trọng tài được công nhận và thi
hành. Mặt khác, thỏa thuận trọng tài chính là “chiếc chìa khóa” duy nhất mở ra
“cánh cửa” giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cho các bên. Nếu khơng có thỏa
1
Theo số liệu của Phịng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIIC), xem:
và Số liệu thống kê ngày 05/01/2011 của VIAC, xem:
/>
1
thuận trọng tài thì sẽ khơng có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Tuy nhiên,
không phải mọi tranh chấp khi có thỏa thuận trong tài đều làm phát sinh thẩm quyền
của Trọng tài. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lí khi nó đáp ứng đầy đủ
các điều kiện của pháp luật. Nhận thức được tầm quan trọng về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các vấn đề pháp lí về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài” để nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lí liên quan đến
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật Trọng
tài thương mại 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan khác. Cụ thể khóa luận
đề cập đến những nội dung cơ bản sau: khái quát chung về thỏa thuận trong tài
(khái niệm, đặc điểm, phân loại thỏa thuận trọng tài, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
lực của thỏa thuận trọng tài) và các qui định của pháp luật về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài (về hình thức, chủ thể, nội dung,…). Từ đó, tác giả so sánh với qui
định pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như các Điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia nhằm đưa ra hướng hoàn thiện khung pháp lí của Việt Nam
về vấn đề này.
3. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Xuất phát từ thực tiễn Trọng tài thương mại của Việt Nam hiện nay, việc
nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong q trình hồn thiện pháp luật Trọng
tài nước ta, tạo điều kiện cho việc thi hành Phán quyết trọng tài trên thực tế, đồng
thời để Việt Nam có thể hội nhập sâu vào hoạt động kinh tế quốc tế.
Như đã đề cập, thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt, có vai trị quan trọng
trong việc giả quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Do đó, với việc nghiên cứu các vấn
đề pháp lí về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, tác giả muốn tìm hiểu một cách chi
tiết các qui định của pháp luật hiện hành của Việt Nam và liên hệ với pháp luật
Trọng tài trên thế giới. Từ đó, thơng qua khóa luận, giúp người đọc có cái nhìn bao
qt hơn, tồn diện hơn về xu hướng của pháp luật trọng tài mà Việt Nam đang
hướng tới; đồng thời giúp người đọc hiểu biết một cách sâu sắc hơn các qui định
hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra được kinh nghiệm cho riêng bản thân trong
quá trình vận dụng các qui định của pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
trên thực tế; qua đó, tránh được những hậu quả khơng đáng có trong q trình xác
lập thỏa thuận trọng tài.
Ngồi ra, thơng qua kết quả của việc nghiên cứu đề tài, tác giả cũng mong
muốn được đóng góp những ý kiến cá nhân có giá trị cho việc hồn thiện và phát
triển qui định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong tương lai.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp liệt kê, phân tích các qui
định liên quan của pháp luật trọng tài Việt Nam về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Ngoài ra, để củng cố cho những đánh giá, lập luận của bản thân về hiệu quả cũng
như hạn chế trong các qui định của pháp luật Việt Nam về vấn đề kể trên, tác giả
còn sử dụng phương pháp so sánh với các qui định về cùng một vấn đề của pháp
luật trọng tài của một số quốc gia khác và của các Điều ước quốc tế về Trọng tài.
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng phương pháp chứng minh khi đưa ra các dẫn
chứng là các phán quyết Trọng tài, các bản án, quyết định của Tòa án về Trọng tài
khi đề cập đến một số khía cạnh của đề tài.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã lần đầu tiên tạo cơ sở pháp lí cho việc
giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài ở Việt Nam. Việc ban hành Pháp
lệnh cho thấy thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã được Nhà nước ta
chính thức công nhận. Đặc biệt, Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội
thơng qua ngày 17/06/2010 chính thức có hiệu lực vào 10/01/2011 càng thu hút
được sự quan tâm của giới luật gia cũng như các cá nhân, tổ chức có liên quan. Có
thể nói đây là một vấn đề mang tính cấp thiết. Bởi vậy, trước tác giả cũng đã có một
số khóa luận cử nhân và luận văn thạc sỹ nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến
trọng tài thương mại, có thể liệt kê một số đề tài gần đây như:
Khóa luận tốt nghiệp: “Một số vấn đề pháp lí về điều khoản Trọng tài
trong hợp đồng thương mại quốc tế” của tác giả Trần Thị Hồng năm 2009
Khóa luận tốt nghiệp: “Các vấn đề pháp lí về hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài” của tác giả Nguyễn Thị Ly Na năm 2010
Khóa luận tốt nghiệp: “Căn cứ hủy phán quyết trọng tài” của tác giả
Nguyễn Thái Hồng Nhung năm 2011
Luận văn thạc sỹ luật học: “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp
luật Việt Nam và Thụy Điển” của tác giả Phan Hoài Nam năm 2009
Tuy các khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sỹ trên đều nghiên cứu về thỏa
thuận trọng tài nhưng mỗi cơng trình nghiên cứu đó lại tiếp cận thỏa thuận trọng tài
ở những mặt, những khía cạnh rất khác nhau. Cụ thể, khóa luận của tác giả Trần thị
Hồng chỉ tiếp cận thỏa thuận trọng tài như một điều khoản trong hợp đồng mà bỏ
sót trường hợp thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận riêng biệt, bên cạnh đó, tác giả
này chỉ xem xét điều khoản trọng tài trong giới hạn của hợp đồng thương mại quốc
tế mà không xét đến các trường hợp khác. Tương tự, ở khóa luận của tác giả
Nguyễn Thái Hồng Nhung, tác giả này chỉ tiếp cận thỏa thuận trọng tài trong trường
hợp thỏa thuận này bị vô hiệu dẫn đến việc quyết định trọng tài bị hủy, nghĩa là tác
giả chỉ xét đến những thỏa thuận trọng tài không hợp pháp, do đó, phạm vi nghiên
cứu về thỏa thuận trọng tài trong trường hợp này rất hạn chế: thỏa thuận trọng tài
chỉ là một trong những căn cứ làm cho quyết định trọng tài bị hủy. Luận văn thạc sỹ
3
của tác giả Phan Hoài Nam lại tiếp cận thỏa thuận trọng tài theo cách lập luận của
khoa học luật so sánh và luật quốc tế, tức tác giả nghiên cứu về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam trong mối tương quan với pháp luật của
Thụy Điển. Cuối cùng, khóa luận của tác giả Nguyễn Thị Ly Na tuy có cũng đề tài
với khóa luận mà tác giả đang nghiên cứu, nhưng cũng tại thời điểm năm 2010 thì
Luật Trọng tài thương mại chưa thực sự có hiệu lực thi hành. Do đó, khóa luận này
vẫn chưa thấy được những biến chuyển mà Luật Trọng tài thương mại đem lại trên
thực tế, chưa thấy được những hiệu quả cũng như những bất cập còn tồn tại của
Luật trọng tài thương mại về vấn đề hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Tóm lại, với khóa luận này, tác giả lí giải và phân tích những hạn chế mà các
qui định về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã thể hiện trong khoảng thời gian vừa
qua, từ đó, kiến nghị phương hướng hồn thiện khung pháp lí cho pháp luật trọng tài
của Việt Nam về các vấn đề tương ứng.
4
CHƢƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
1.1.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài được coi là vấn đề then chốt và có vai trị quyết định
trong việc sử dụng Trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên
phát sinh từ các lĩnh vực luật định. Khơng có thỏa thuận trọng tài thì khơng có việc
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 (LTTTM) qui định: “Thỏa
thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Khái niệm “thỏa thuận trọng tài” cũng được Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
2003 (PLTTTM) qui định tại Khoản 2 Điều 2 như sau: “Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể
phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”
Như vậy, về cơ bản qui định của LTTTM và PLTTTM là tương tự nhau khi đề
cập đến khái niệm “thoả thuận trọng tài” vì cả hai văn bản trên đều cho rằng: đó
phải là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa các bên về việc sẽ giải quyết các tranh
chấp (đã phát sinh hoặc có thể phát sinh) bằng phương thức Trọng tài, một trong
những cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án. Khơng phải bất kì chủ thể nào
cũng có quyền kí kết thoả thuận trọng tài, ngay cả khi các chủ thể được pháp luật
cho phép kí kết thoả thuận trọng tài thì khơng phải bất kì tranh chấp nào giữa họ
cũng được giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Đây là điều mà các chủ thể có liên quan
cần phải đặc biệt quan tâm và lưu ý khi có ý định kí kết thoả thuận trọng tài.
Tuy nhiên ta cũng khơng thể phủ nhận rằng có những khác biệt nhất định giữa
hai qui định trong hai văn bản qui phạm pháp luật đề cập ở trên: thứ nhất, nếu
PLTTTM coi Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên “cam kết” giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài thì LTTTM đã khơng coi đó là “cam kết” nữa. Theo tác
giả thì sự thay đổi như vậy là cần thiết và phù hợp với thực tiễn pháp luật quốc tế;
bởi lẽ, một khi các bên đã thống nhất lựa chọn Trọng tài thì có nghĩa là các bên sẽ
phải tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình, nội hàm của khái niệm “thoả
thuận trọng tài” đã mang tính ràng buộc các bên nếu nó hợp pháp, do đó, việc giải
quyết tranh chấp giữa các bên bằng thủ tục trọng tài khi đó khơng cịn là quyền mà
trở thành trách nhiệm đối với nhau giữa các bên. Rõ ràng, trong trường hợp này,
thuật ngữ “cam kết” khơng có ý nghĩa quyết định và chỉ làm rắc rối thêm về mặt
ngữ nghĩa. Thứ hai, xuất phát từ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài có
sự mở rộng giữa LTTTM và PLTTTM nên cụm từ “trong hoạt động thương mại”
qui định tại Khoản 2 Điều 2 PLTTTM đã khơng cịn được giữ lại trong qui định tại
5
Khoản 2 Điều 3 LTTTM. Và theo tác giả thì đây cũng là sự thay đổi hợp lí của Luật
hiện hành.
Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài (sau đây gọi tắt là Công ước New York 1958) cũng đã định nghĩa về
thỏa thuận trọng tài tại Điều II(1) như sau: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ công nhận
một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi
tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lí xác định,
dù là quan hệ hợp đồng hay khơng, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải
quyết được bằng trọng tài”.
Thêm vào đó, Cơng ước Châu Âu 1961 được kí kết dưới sự bảo trợ của Uỷ
ban Liên hợp quốc về Kinh tế Châu Âu với mục đích là hướng tới giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài đối với mậu dịch giữa Đông và Tây Âu (đây được coi là “Công
ước bổ sung cho công ước New York 1958 chủ yếu đối với Trọng tài trong các giao
dịch thương mại Đông- Tây Âu trong trường hợp việc thi hành một thoả thuận trọng
tài hoặc quyết định trọng tài thuộc phạm vi hiệu lực của cả hai Công ước2), tại Điều
I(2)(a) cũng qui định: “Thuật ngữ “thoả thuận trọng tài” có nghĩa là điều khoản
trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thoả thuận trọng tài, hợp đồng hoặc thoả
thuận trọng tài được các bên kí kết, hoặc được ghi nhận trong thư tín, điện tín trao
đổi, hoặc trong văn bản liên lạc bằng máy telex và, trong mối liên hệ với các quốc
gia mà pháp luật của các quốc gia này không yêu cầu thoả thuận trọng tài phải
bằng văn bản, bất cứ thoả thuận trọng tài nào được kí kết theo hình thức mà các hệ
thống pháp luật này cho phép”.
Tương tự, Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban luật thương
mại quốc tế của Liên hợp quốc 1985 (sau đây gọi tắt là Luật Mẫu UNCITRAL) đưa
ra định nghĩa về thỏa thuận trọng tài tại Điều 7 khoản 1 như sau: “Thỏa thuận trọng
tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định
phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lí xác định, dù là
quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể
dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận
riêng”.
Về khái niệm này, pháp luật về trọng tài của Thụy Điển khơng đưa ra bất kì
khái niệm cụ thể nào. Tuy nhiên, khái niệm “thoả thuận trọng tài” có thể được hiểu
ngầm thông qua qui định tại Section 1 Đạo luật trọng tài của Thụy Điển: “Thông
qua thỏa thuận, những tranh chấp liên quan đến những vấn đề mà các bên hướng
đến giải quyết có thể được chuyển cho một hoặc một vài trọng tài để ra quyết định.
2
Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam(VIAC)
(2009), “Công ước New York 1958- Hướng tới sự giải thích thống nhất của Tồ án” (Dịch từ nguyên bản
tiếng Anh), NXB Pháp luật và Thuế Kluwer, Deventer/ Hà Lan- Antwep- Boston- London- Frankfurt.
6
Sự thỏa thuận như thế có thể liên quan đến những tranh chấp trong tương lai mà nó
có với quan hệ pháp lí gắn liền với hợp đồng”3.
Tóm lại, mặc dù giữa các quốc gia và các văn bản pháp luật quốc tế có những
cách thức khác nhau để qui định về khái niệm “thoả thuận trọng tài”, có văn bản
đưa ra khái niệm cụ thể (Việt Nam, Luật Mẫu UNCITRAL, Cơng ước New
York…), có văn bản lại chỉ được hiểu ngầm (Thụy Điển,…), song dù qui định như
thế nào thì nội hàm của các khái niệm là gần như tương đồng nhau, chỉ có sự khác
biệt về loại hình tranh chấp mà Trọng tài có thẩm quyền giải quyết.
Trước hết, thoả thuận trọng tài phải là sự thống nhất ý chí giữa các bên, ghi
nhận sự đồng ý của các bên về việc đưa tranh chấp (đã phát sinh hoặc có thể phát
sinh) ra giải quyết tại Trọng tài. Thoả thuận trọng tài có vai trị cốt yếu, xun suốt
tồn bộ q trình tố tụng Trọng tài, kể từ lúc khởi đầu cho tới khi công nhận và thi
hành Phán quyết trọng tài. Một thoả thuận trọng tài được coi là hợp pháp khi nó
tuân thủ các qui định của pháp luật về điều kiện hiệu lực. Hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài được xác định dựa trên nhiều yếu tố, vấn đề này, sẽ được tác giả phân tích
ở Chương 2 của khố luận này.
1.1.2. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
1.1.2.1. Tính tự nguyện của thoả thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài là nền móng của tố tụng Trọng tài thương mại, trong đó,
yếu tố tự nguyện, tự do ý chí là đặc tính khơng thể thiếu đối với bất kỳ quá trình
giải quyết tranh chấp nào ngoài Toà án quốc gia, và trong tố tụng Trọng tài cũng
khơng phải là ngoại lệ bởi lẽ, q trình này có thực hiện được hay khơng là phụ
thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên. Cũng chính vì lẽ đó mà các luật gia châu Âu
lục địa rất coi trọng mong muốn của các bên. Theo họ, đôi khi thoả thuận này cùng
với một bộ qui tắc phù hợp là đủ để biến Trọng tài thành một quá trình tố tụng theo
ý chí của các bên và phi địa phương hố được tiến hành hồn tồn độc lập với luật
quốc gia4.
Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 của nước ta (sau đây gọi tắt là BLDS 2005) qui
định về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”
Về hình thức, “thoả thuận trọng tài” có thể chưa phải là một hợp đồng nhưng
ta nên coi “thoả thuận trọng tài” như một hợp đồng vì xét về bản chất nó mang đầy
đủ những thuộc tính cơ bản của một hợp đồng. Đó là văn bản các bên thỏa thuận về
phương thức giải quyết tranh chấp, trung tâm giải quyết, qui tắc tố tụng, địa điểm,
ngôn ngữ… và các bên cũng phải chịu trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình.
3
Phan Hồi Nam (2009), “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật Việt Nam và Thụy Điển”, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Phịng Thương mại và cơng nghiệp Việt Nam, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) dịch từ
nguyên bản của Alan Redfern, Martin Hunter, Nicgel Blackaby & Constantine Partasides, Law and Practice
of International Commercial Arbitration, “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế”, tr.158.
7
Và cũng bởi lẽ, nếu hợp đồng được các bên thoả thuận kí kết nhằm xác lập quyền,
nghĩa vụ giữa các bên thì thoả thuận trọng tài chính là một “hợp đồng” mà trong đó
các bên thoả thuận đưa vụ tranh chấp giữa các bên (nếu có) ra giải quyết tại trọng
tài5.
Tính tự nguyện là đặc điểm đặc trưng cho mọi quan hệ pháp luật tư; và do
thoả thuận trọng tài với cách hiểu như một hợp đồng giữa các bên về vấn đề lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tư nên nó cũng phải đáp ứng
nguyên tắc “tự do giao kết hợp đồng”- một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi
trong pháp luật các nước trên thế giới.
Theo lập luận trên đây thì một “thoả thuận trọng tài” cũng nhất thiết phải xuất
phát từ sự tự do ý chí và tự nguyện giao kết thoả thuận nhằm ràng buộc các bên về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm như: bí mật, liên tục,mềm dẻo, nhanh chóng,linh
hoạt, duy trì được quan hệ đối tác6 phù hợp với mong đợi của các bên nếu các bên
thiện chí, trung thực và hợp tác; và dù trong trường hợp ngược lại thì do phán quyết
trọng tài có giá trị chung thẩm nên tranh chấp giữa các bên cũng vẫn sẽ được giải
quyết một cách nhanh chóng về mặt thời gian và gọn nhẹ về mặt thủ tục. Đồng thời
Trọng tài còn là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Toà án
nên việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của các bên, các bên có tồn quyền quyết định. Do đó, thoả thuận trọng tài là thoả
thuận lựa chọn phương thức giải quết tranh chấp hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện
của các bên.
Do đặc điểm hết sức đặc trưng này mà pháp luật Trọng tài đã qui định sự tự
nguyện của các bên khi xác lập thoả thuận Trọng tài cũng là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Khoản 5 Điều 18 LTTTM qui định
một trong những trường hợp làm cho thoả thuận trọng tài vô hiệu là: “Một trong
các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và
có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vơ hiệu”. Rõ ràng, với tư cách là một
trong những phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, một thiết chế tài phán tư,
trọng tài luôn tôn trọng sự tự nguyện của các bên tranh chấp. Và thỏa thuận trọng tài
chính là biểu hiện đầu tiên của sự tự nguyện thỏa thuận đó.
Tính tự nguyện trong thoả thuận trọng tài thể hiện ở các mặt: Các bên được
chọn trọng tài viên để giải quyết vụ tranh chấp (Khoản 4 Điều 43 LTTTM), xác
định Tồ án có thẩm quyền đối với hoạt động Trọng tài (Khoản 1 Điều 7 LTTTM);
được chọn địa điểm giải quyết vụ tranh chấp (Khoản 1 Điều 11 LTTTM), thời gian
5
Nguyễn Ngọc Lâm (2007), “Tư pháp quốc tế- phần 2: Một số chế định cơ bản, tố tụng Tồ án và Trọng
tài”, NXB Phương Đơng, Hồ Chí Minh, tr.294.
6
Thạc sỹ Bạch Thị Lệ Thoa- Học viện Tư pháp, “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và cơ chế hỗ trợ của
Tồ án”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử: />
8
giải quyết vụ tranh chấp; cách thức, trình tự gửi thông báo trong tố tụng Trọng tài
(Điều 12 LTTTM); luật áp dụng để giải quyết tranh chấp (đối với vụ tranh chấp có
yếu tố nước ngồi) theo Khoản 2 Điều 14 và ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng Trọng
tài (đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngồi) theo Khoản 2 Điều 10 LTTTM.
Tính tự nguyện trong thoả thuận trọng tài là một đặc điểm đặc trưng của thoả
thuận trọng tài vì đó là ngun tắc nền tảng trong việc xác định thẩm quyền của
Trọng tài. Bởi lẽ, một khi đã xác lập thoả thuận trọng tài cũng đồng nghĩa với việc
các bên tự nguyện loại trừ thẩm quyền của Tồ án, và khi đó, tất nhiên các bên phải
tự chịu rủi ro có thể xảy ra, tức là các bên cũng phải tự nguyện chấp hành Quyết
định trọng tài một cách nghiêm chỉnh. Có như thế, phương thức Trọng tài mới phát
huy được hiệu quả, các bên mới giữ được uy tín và quan hệ đối tác lâu dài.
1.1.2.2. Tính độc lập của thoả thuận trong tài
Liên quan đến vấn đề này, cả PLTTTM trước đây và LTTTM hiện nay đều qui
định tương tự nhau tại Điều 11 PLTTTM và Điều 19 LTTTM . Theo đó, điều khoản
trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng; việc thay đổi, gia hạn, huỷ bỏ hợp đồng, sự
vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
Tuy nhiên, LTTTM đã thay cụm từ “điều khoản trọng tài” trong PLTTTM
thành cụm từ “thoả thuận trọng tài”. Bên cạnh đó, LTTTM cịn bổ sung thêm trường
hợp: “hợp đồng không thể thực hiện được” cũng không làm cho thỏa thuận trọng tài
vô hiệu. Sự thay đổi này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và xu thế tồn cầu. Vì theo
ngun tắc trên ta có thể dễ dàng suy luận rằng thỏa thuận trọng tài độc lập với các
điều khoản khác của hợp đồng nên khi rơi vào trường hợp “hợp đồng không thể
thực hiện được” thì thoả thuận trọng tài vẫn có thể phát sinh hiệu lực để làm phát
sinh thẩm quyền của Trọng tài. Về vấn đề này tác giả sẽ phân tích kĩ hơn ở Chương
2 của khố luận.
1.2.
Phân loại và hình thức của thoả thuận trọng tài
1.2.1. Phân loại thỏa thuận trọng tài
Cả Khoản 2 Điều 3 LTTTM và Khoản 2 Điều 2 PLTTTM đều dựa vào thời
điểm xác lập và dạng tồn tại của thoả thuận trọng tài để làm căn cứ phân loại, theo
đó, thoả thuận trọng tài gồm hai loại: điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa
thuận riêng. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS 2004) cũng quy định tương tự trong
Khoản 1, Điều 365, “thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được
ghi trong hợp đồng hoặc thoả thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi
phát sinh tranh chấp”.
Luật Mẫu UNCITRAL (Bản được sửa đổi ngày 04/12/2006) và Công ước
New York 1958 cũng đã qui định một thoả thuận trọng tài có thể tồn tại dưới một
trong hai dạng: một điều khoản trong hợp đồng hoặc một thoả thuận riêng biệt lần
lượt tại Khoản 2 Điều 7 và Điều II.
9
Loại thứ nhất, thoả thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng. Thông
thường thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới dạng này nhằm để giải quyết tranh
chấp có thể phát sinh trong tương lai. Bởi lẽ thời điểm kí thoả thuận trọng tài cũng
chính là thời điểm xác lập hợp đồng nên đồng nghĩa với việc khi đó, tranh chấp giữa
các bên chưa phát sinh, các bên khơng thể dự đốn trước đó có thể là loại tranh chấp
cụ thể nào và đâu là cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp đó nên việc qui định chi
tiết có thể dẫn đến trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được khi
tranh chấp thực sự xảy ra. Ví dụ, trường hợp thứ nhất, điều khoản trọng tài giữa các
bên qui định khi tranh chấp phát sinh sẽ do duy nhất Trọng tài viên Trọng tài vụ
việc giải quyết và có xác định cụ thể Trọng tài viên, nhưng tại thời điểm tranh chấp
xảy ra, Trọng tài viên đã được xác định đó, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan mà không thể tham gia giải quyết tranh chấp được, mà các bên lại
khơng có một thỏa thuận khác về việc chọn lại Trọng tài viên thì vụ việc sẽ khơng
được giải quyết tại Trọng tài (Khoản 4 Điều 43 LTTTM) vì điều khoản trọng tài
trên không thể thực hiện được. Tương tự là trường hợp các bên đã có thoả thuận
giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng tại thời điểm phát
sinh tranh chấp, Trung tâm này dã chấm dứt hoạt động mà khơng có tổ chức trọng
tài nào kế thừa và các bên khơng có thoả thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài khác
thì tranh chấp đó cũng sẽ khơng được giải quyết bằng phương thức trọng tài theo
Khoản 3 Điều 43 LTTTM. Cũng chính bởi lẽ đó mà thoả thuận trọng tài trong
trường hợp này có ưu điểm là thường được qui định đơn giản, mang tính khái quát
cao và dễ dàng thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ những ưu điểm trên mà loại “thoả
thuận trọng tài” tồn tại dưới dạng một điều khoản trong hợp đồng này có những
nhược điểm nhất định, đó là qui định sơ sài, nhiều khả năng không phù hợp với
tranh chấp sẽ phát sinh (do không dự liệu được tranh chấp cụ thể có thể xảy ra trong
tương lai) nên có thể dẫn đến thoả thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không thực hiện
được như đã phân tích ở trên.
Trên thưc tế, để tránh những rắc rối có thể phát sinh khi xảy ra tranh chấp, các
bên nên lập Điều khoản trọng tài mà các Trung tâm trọng tài khuyến khích. Các
điều khoản này gọi là các Điều khoản mẫu (model clauses) mà các Trung tâm trọng
tài thường ghi trên website hay trong các giới thiệu của mình. Cụ thể, các bên có thể
thoả thuận cơ bản rằng: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng
này sẽ được giải quyết chung thẩm tại [Tên của Trung tâm trọng tài]”)7. Một điều
khoản mẫu như vậy hoàn toàn đảm bảo về mặt hiệu lực mà khơng cần phải q chi
tiết. Chẳng hạn, các bên có thể đưa vào hợp đồng điều khoản trọng tài mà Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam khuyến khích. Cụ thể, các bên có thể thỏa thuận
rằng: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải
7
Nguyễn Văn Lộc (2009), “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại tại Việt Nam”,
/>
10
quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phịng
Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam”.
Ngồi ra, ta cũng có thể tham khảo một số Điều khoản Trọng tài mẫu đối với
các hợp đồng quốc tế của một số Hiệp hội và Trung tâm trọng tài có uy tín như:
Hiệp hội Trọng tài Hoa kỳ, Trung tâm Trọng tài khu vực Cairo, Uỷ ban Trọng tài
Thương mại và Kinh tế Quốc tế Trung Quốc (CIETAC), Trung tâm Trọng tài Quốc
tế Hồng Kông, Trung tâm giải quyết các tranh chấp Đầu tư Quốc tế, Viện Trọng tài
Hà Lan, Viện Trọng tài thuộc Phòng Thương mại Stockholm,…
Loại thứ hai, thoả thuận trọng tài là một thoả thuận riêng biệt (hay còn gọi là
thỏa ước trọng tài)8. Đây có thể là một Phụ lục đính kèm tại thời điểm kí hợp đồng
hoặc được các bên kí kết sau khi tranh chấp phát sinh nên loại thoả thuận trọng tài
này có thể là thoả thuận trọng tài về việc giải quyết tranh chấp đang có hoặc sẽ phát
sinh trong tương lai. Nhưng đa số nó được xác lập khi tranh chấp giữa các bên đã
phát sinh; và vì vậy, trong trường hợp này, các bên đã xác định được tranh chấp
đang tồn tại là loại tranh chấp cụ thể gì. Do đó, những thoả thuận trọng tài riêng biệt
thường được qui định khá chi tiết. Trong những trường hợp như thế này, pháp luật
Trọng tài luôn tôn trọng yếu tố tự nguyện thoả thuận giữa các bên mà cụ thể là
thông qua các qui phạm pháp luật tuỳ nghi, các bên hồn tồn có quyền thoả thuận
về cách thức và trình tự gửi thơng báo đơn kiện cũng như các tài liệu khác mà
không nhất thiết phải tuân theo qui định của luật (Điều 12 LTTTM). Tuy nhiên, đối
với trường hợp thoả thuận trọng tài được xác lập sau khi tranh chấp xảy ra, các bên
(đặc biệt là bên bị vi phạm) phải lưu ý thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài (Điều 33 LTTTM).
Tuy nhiên cần lưu ý rằng một khi tranh chấp đã phát sinh, quyền lợi của các
bên bị ảnh hưởng, các bên có xu hướng tìm đến một phương thức giải quyết tranh
chấp có lợi cho mình (nhất là khi nhận thấy nếu lựa chọn việc sử dụng phương thức
Trọng tài bất lợi cho mình và có thể dẫn đến việc thua kiện). Trong tình huống này,
các bên tranh chấp sẽ khó có thiện chí để ngồi lại với nhau cùng đưa ra những quyết
định liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đã phát sinh mà như đã phân tích ở
trên thì phương thức Trọng tài chỉ thực sự phát huy hiệu quả và thoả thuận trọng tài
chỉ có thể có hiệu lực khi các bên tranh chấp hồn tồn tự nguyện về mặt ý chí.
Tóm lại, liên quan đến qui định của pháp luật Việt Nam về việc phân loại thoả
thuận trọng tài dựa vào căn cứ thời điểm xác lập và dạng tồn tại của thoả thuận, tác
giả đồng ý với ý kiến cho rằng: thời điểm thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài như vậy là rất thoáng và linh hoạt cho các bên khi lựa chọn, cho nên
các bên chỉ cần quan tâm vấn đề là nội dung của điều khoản này là như thế nào cho
8
Nguyễn Đình Thơ (2006), “Một số vấn đề về thoả thuận trọng tài”, Tạp chí Tồ án nhân dân, (số 20/2006),
tr.16.
11
đúng quy định thì việc giải quyết sẽ được thực hiện tại Trung tâm trọng tài đó9. Rõ
ràng, cả qui định trước đây trong PLTTTM và trong LTTTM hiện nay của nước ta
đều là sự học hỏi và tiếp thu qui định tương ứng của các nước và thông lệ quốc tế
như Luật Mẫu UNCITRAL, Công ước New York 1958 đó là việc các văn bản trên
đều thừa nhận giá trị pháp lí của các thoả thuận trọng tài có liên quan đến các tranh
chấp tương lai cũng như các tranh chấp hiện tại.
1.2.2. Hình thức của thoả thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản, thoả thuận này có hiệu
lực hồn tồn độc lập với hợp đồng. Ngồi ra, pháp luật Trọng tài cịn qui định mở
rộng thêm các trường hợp thoả thuận trọng tài cũng được coi là văn bản theo hướng
phù hợp với sự phát triển của kinh tế nội quốc và thế giới hiện nay.
Pháp luật Việt Nam cũng như hầu hết các nước đều thống nhất khi qui định về
vấn đề này. Ví dụ: Điều 18 LTTTM Việt Nam 2010, Điều 1031 Luật Trọng tài của
Cộng hòa Liên bang Đức; Điều 7 khoản 2 luật trọng tài thương mại quốc tế của
Cộng hòa Liên bang Nga; Điều 6 Luật trọng tài Thái Lan10.
Đây cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
1.2.3. Giá trị pháp lí của thỏa thuận trọng tài
Một thỏa thuận trọng tài hợp pháp được hiểu là thỏa thuận trọng tài tuân thủ
các qui định của pháp luật về điều kiện hiệu lực. Hiệu lực của nó được xác định dựa
trên nhiều yếu tố như chủ thể kí thỏa thuận trọng tài, hình thức của thoả thuận trọng
tài hay nội dung của thỏa thuận trọng tài… Khi một thoả thuận trọng tài hợp pháp
thì theo Điều 5 PLTTTM và Điều 6 LTTTM, Tồ án sẽ khơng có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp, bởi “trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng
tài mà một bên khởi kiện tại Tồ án thì tồ án phải từ chối thụ lí, trừ trường hợp
thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Điều này khẳng định giá trị pháp lí của thoả thuận trọng tài, ý nghĩa quyết định của
sự tự nguyện biểu thị ý chí của các bên khi kí kết thoả thuận trọng tài.
Như vậy, một thoả thuận trọng tài hợp pháp, trước hết, sẽ làm loại trừ thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của Tồ án. Vì thế, pháp luật về trọng tài quy định rằng
trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên lại khởi kiện tại Tòa án
nếu bên cịn lại có u cầu, Tịa án phải từ chối thụ lý vụ tranh chấp trừ trường hợp
Tòa án tuyên rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc khơng thể thực hiện được.
Theo đó, như đã nêu ở trên, các qui định về thẩm quyền của Toà án liên quan
đến việc thụ lí giải quyết tranh chấp trong PLTTTM trước đây và Luật TTTM hiện
nay của Việt Nam không được áp dụng khi các bên chọn phương thức Trọng tài.
9
Nguyễn Văn Lộc (2009), “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại tại Việt Nam”,
/>10
Hội Luật gia Việt Nam (2009), “Giới thiệu tóm tắt của Hội Luật gia Việt Nam trình Quốc hội Khố XII về
Luật Trọng tài của một số nước trên thế giới”, nguồn: www.vibonline.com.vn/Files/Download.aspx?id=856
12
Tương tự, theo Khoản 3 Điều II Công ước New York 1958: “Tòa án của một
Quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà đối với vấn đề
đó các bên đã có thỏa thuận theo nội dung của Điều này, sẽ, theo yêu cầu của một
bên, đưa các bên tới Trọng tài, trừ khi Tịa án thấy rằng thỏa thuận nói trên khơng
có hiệu lực, không hiệu quả hoặc không thể thực hiện được”.
Theo như qui định trên của Công ước New York 1958 thì Tồ án sẽ khơng từ
chối thẩm quyền của mình khi Tồ án thấy rằng “thoả thuận đó khơng có hiệu lực,
không hiệu quả hoặc không thể thực hiện được”. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, theo
Điều 2 Quyết định số 453 của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày 28/07/1995 về việc tham gia công ước về Công nhận và cho thi hành quyết
định của trọng tài nước ngoài của Liên hợp quốc đã được thông qua tại New York
ngày 10/06/1958 qui định: “Sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh
từ các quan hệ pháp luật thương mại. Mọi việc giải thích Cơng ước trước Tồ án
hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải theo qui định của Hiến pháp và
Pháp luật Việt Nam”. Như vậy, để loại trừ thẩm quyền của Toà án Việt Nam trên cơ
sở của cơng ước New York thì tranh chấp các bên thoả thuận giải quyết bằng Trọng
tài phải là “tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại” theo cách
hiểu của pháp luật Việt Nam.
Qui định về thẩm quyền của Toà án khi tồn tại một thoả thuận trọng tài có
hiệu lực giữa các bên được quy định rõ ràng trong Khoản 1 Điều 8 Luật Mẫu
UNCITRAL: “Trước khi việc kiện về vấn đề đối tượng của thỏa thuận được đưa ra,
nếu một bên yêu cầu không muộn hơn thời gian khi nộp bản tường trình đầu tiên
của mình về nội dung tranh chấp, toà án sẽ chuyển các bên cho Trọng tài trừ khi
toà án thấy rằng thoả thuận đó là vơ hiệu và khơng có hiệu lực, khơng tiến hành
được và khơng có khả năng thực hiện”.
Ngồi ra, pháp luật của một số nước cũng có qui định tương tự như pháp luật
về Trọng tài của Việt Nam về vấn đề này; ví dụ như: Điều 9 Luật Trọng tài của Anh
1996; Điều 1032 Luật Trọng tài của Đức; Điều 1458 Luật Trọng tài của Pháp11 hay
Điều 8 Luật Trọng tài Thương mại Quốc tế Liên bang Nga 199312.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là: liệu rằng một thỏa thuận trọng tài hợp pháp có
thể không làm phát sinh thẩm quyền của Trọng tài trên thực thế hay khơng? (tức
trong trường hợp này Tồ án vẫn có thẩm quyền giải quyết). Về nguyên tắc, pháp
luật của hầu hết quốc gia đều thừa nhận vấn đề thỏa thuận lựa chọn mới thay thế
cho thỏa thuận cũ. Bởi lẽ ta biết rằng, phương thức Trọng tài nói chung và thoả
thuận trọng tài nói riêng là kết quả của sự thoả thuận giữa các bên nhằm giải quyết
11
Hội Luật gia Việt Nam (2009), “Giới thiệu tóm tắt của Hội Luật gia Việt Nam trình Quốc hội Khố XII về
Luật Trọng tài của một số nước trên thế giới”, tlđd.
12
Tiến sĩ Đỗ Văn Đại và Tiến sĩ Trần Hoàng Hải (2010), “Về thẩm quyền của Toà án Việt Nam khi có thoả
thuận chọn trọng tài nước ngồi”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (Số 12(272)/2010), tr.36.
13
những bất đồng của họ; chính vì vậy, các bên cũng có quyền thay đổi sự thoả thuận
của họ nếu các bên cùng mong muốn.
Theo quan điểm trên thì Tồ án khơng tự chủ động xác định mình khơng có
thẩm quyền mà chỉ khước từ thẩm quyền khi có một bên trong tranh chấp yêu cầu.
Qui định theo hướng này được chấp nhận rộng rãi trên thế giới như trong Thoả ước
Genevơ năm 1923, Công ước Genevơ năm 1961 và đa phần các hệ thống luật trong
đó có cả Cơng ước New York 1958 và Luật Mẫu UNCITRAL13.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy, việc một bên viện dẫn thoả thuận
trọng tài để u cầu Tồ án khơng thụ lí là một điều kiện để loại trừ thẩm quyền của
Tồ án. Điều đó có nghĩa là Tồ án khơng được tự mình từ chối thẩm quyền của
mình nếu khơng có bên nào u cầu và khi đó Tịa án hồn tồn có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp mặc dù tồn tại một thoả thuận trọng tài hợp pháp trước đó. Tịa án
chỉ phải chuyển các bên cho Trọng tài nếu thỏa thuận trọng tài được viện dẫn bởi
một trong các bên. Theo đó, các bên phải viện dẫn thỏa thuận trọng tài trong hoặc
với bản giải trình đầu tiên về các vấn đề của tranh chấp (Điều 8 Luật Mẫu
UNCITRAL, Điều 2 Công ước New York,…)
Liên quan đến việc cơng nhận thẩm quyền của Tồ án khi giữa các bên tồn tại
một thoả thuận trọng tài có hiệu lực, trước đây, Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh trọng tài Thương mại 2003 qui định Tịa án phải từ chối thụ lí nếu thỏa
thuận trọng tài giữa các bên có hiệu lực. Tuy nhiên, Điểm b, tiểu mục 1.2, mục 1
Nghị quyết đã qui định: “Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết hoặc khi được Tịa án thơng báo về việc ngun đơn đã
nộp đơn kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ tranh chấp mà trong thời hạn 07 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Tịa
án, bị đơn khơng phản đối (được coi là các bên có thỏa thuận mới lựa chọn Tịa án
giải quyết vụ tranh chấp thay cho thỏa thuận Trọng tài) hoặc bị đơn có phản đối
nhưng khơng xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên
đã có thỏa thuận trọng tài (trường hợp này được coi là khơng có thỏa thuận trọng
tài)”. Dường như qui định này của Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP đã tiếp thu tinh
thần của các quốc gia khác và của thông lệ quốc tế; tuy nhiên, sự tiếp thu này có
phần không triệt để, ngược lại, qui định này lại khuyến khích các bên thối thác việc
thực hiện thỏa thuận trọng tài đã xác lập, không thể hiện được mong muốn của các
bên khi kí kết thoả thuận trọng tài. Bởi theo qui định thì “trong thời hạn 07 ngày, kể
từ ngày nhận được văn bản của nguyên đơn hoặc thông báo của Tồ án, bị đơn
khơng phản đối (được coi là các bên có thoả thuận mới lựa chọn Tồ án giải quyết
vụ tranh chấp thay cho thoả thuận trọng tài)”; nhưng theo tinh thần của Điều 396
Bộ Luật dân sự 2005 (BLDS 2005) thì “im lặng khơng có nghĩa là đồng ý” bởi
13
Tiến sĩ Đỗ Văn Đại và Tiến sĩ Trần Hoàng Hải (2010), tlđd, tr.36.
14
“chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải là sự trả lời của bên được đề nghị đối
với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Trong khi đó,
thoả thuận trọng tài như đã phân tích có bản chất như một hợp đồng thì khơng có lí
do gì lại đi ngược lại với tinh thần của BLDS 2005 được. Với những lập luận như
vậy, tác giả cho rằng, việc Nghị quyết 05/ 2003/NQ-HĐTP qui định trường hợp “bị
đơn không phản đối” được coi là các bên có thoả thuận mới là khơng xác đáng.
Trong q trình áp dụng PLTTTM, thực tiễn Tồ án cũng đã rất linh hoạt và
thuyết phục khi từ chối thụ lí vụ tranh chấp mà giữa các bên tồn tại một thoả thuận
trọng tài hợp pháp. Đó là vụ tranh chấp hợp đồng liên doanh giữa nguyên đơn là
Công ty TNHH Trường Sanh và bị đơn là ông Kuo Chi Sheng. Trong hợp đồng các
bên có thỏa thuận chọn “Trung tâm trọng tài quốc tế thuộc Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam giải quyết tranh chấp”. Nhưng khi tranh chấp xảy ra Công
ty TNHH Trường Sanh đã gửi văn bản cho ông Kuo Chi Sheng thông báo sẽ khởi
kiện u cầu Tịa án giải quyết; ơng Kuo Chi Sheng đã nhận được thông báo khởi
kiện của nguyên đơn, nhưng quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo
mà không phản đối. Căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP Tịa
án nhân dân tỉnh Bình Dương xem trong trường hợp này là các bên có thỏa thuận
mới chọn Toà án giải quyết tranh chấp thay cho thỏa thuận trọng tài đã xác lập
trước đó. Do đó, tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thụ lí, giải quyết vụ án theo
thẩm quyền. Trong khi đó, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam cho rằng giữa các
bên đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, căn cứ vào Điều 5 PLTTTM thì
Tịa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã thụ lí sai thẩm quyền. Các trọng tài viên của
VIAC cho rằng Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP là văn bản hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh Trọng tài Thương mại. Về tính pháp lí, văn bản này có giá trị pháp lí thấp hơn
so với pháp lệnh và không được trái với qui định trong Pháp lệnh. Như vậy, việc
thẩm phán viện dẫn Nghị quyết 05/2003/NQ-HĐTP mà không viện dẫn Pháp lệnh
là không thể chấp nhận được. Do đó, căn cứ vào Điều 30 Pháp lệnh, ngày
24/10/2008, VIAC đã ra Quyết định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp vụ kiện số
10/2008 giữa ông Kuo Chi Sheng (nguyên đơn) và công ty TNHH Trường Sanh (bị
đơn). Sau đó, cơng ty này đã nộp đơn u cầu Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh xem xét lại Quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền giải quyết vụ
kiện. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sau khi xem xét, xét thấy Quyết định
của Hội đồng trọng tài là đúng qui định của pháp luật. Trên cơ sở đó, Tịa án đã ra
Quyết định số 1475/2009/KDM-QĐ ngày 18/06/200914 với nội dung không chấp
nhận yêu cầu của Công ty TNHH trường Sanh giữ nguyên Quyết định của Hội đồng
Trọng tài. Hiện nay, LTTTM nước ta khơng cịn giữ lại qui định này nhưng so sánh
qui định tại Điều 6 LTTTM của nước ta với qui định của các nước có pháp luật về
14
Tiến sỹ Đỗ văn Đại và tiến sĩ Trần Hoàng Hải (2010), “Tuyển tập các bản án, quyết định của Tòa án Việt
Nam về trọng tài thương mại”, NXB Lao động,
15
Trọng tài phát triển trên thế giới cũng như so sánh với thơng lệ quốc tế thì có khả
năng pháp luật về trọng tài nước ta sẽ bỏ sót trường hợp: mặc dù giữa các bên đã có
thỏa thuận trọng tài hợp pháp, song nó đã bị hủy bỏ bằng một thỏa thuận mới giữa
các bên (có thể là thỏa thuận chọn trọng tài khác hoặc thỏa thuận chọn Tòa án, có
thể thể hiện một cách rõ ràng hoặc ngầm định). Và tác giả đồng ý với ý kiến cho
rằng, nếu hai bên đã ký thỏa thuận trọng tài nhưng sau đó, một bên cứ kiện ra Tịa
án và bên kia chấp nhận bằng văn bản việc kiện ra Tòa án, thì có nghĩa là hai bên đã
tự nguyện thỏa thuận xóa bỏ điều khoản trọng tài và giao thẩm quyền giải quyết
tranh chấp cho Tòa án. Chỉ lúc này Tòa án mới được thụ lý giải quyết. Còn nếu bên
kia khơng đồng ý bằng văn bản thì Tịa án khơng có thẩm quyền15. Hiện nay,
LTTTM của nước ta khơng qui định rõ rằng có cơng nhận hay khơng việc giữa hai
bên đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài hợp pháp, nhưng khi phát sinh tranh chấp, họ
lại đồng thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại tòa án.
Thứ hai, thoả thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác
lập trên cơ sở ý chí tự nguyện, bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác lập thoả
thuận trọng tài thì khơng bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp tại
Trọng tài.
Thứ ba, song song với việc loại trừ thẩm quyền giải quyết của Tồ án thì một
thoả thuận trọng tài có hiệu lực cịn có ý nghĩa là cơ sở đầu tiên để xác định thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài, đồng thời mở ra thủ tục giải quyết tranh chấp bằng
phương thức Trọng tài khi giữa các bên trong quan hệ thoả thuận trọng tài phát sinh
tranh chấp.
Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận
chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, không phải bất cứ thỏa thuận
trọng tài nào cũng làm phát sinh thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có hiệu lực theo qui định của
pháp luật về năng lực chủ thể kí kết, hình thức của thỏa thuận và phạm vi nội dung
thỏa thuận… Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài khơng có giá trị
pháp lý thì Trọng tài cũng khơng có thẩm quyền và, nếu Trọng tài vẫn giải quyết
trong trường hợp này, Quyết định trọng tài sẽ bị hủy. Bởi lẽ, theo Khoản 1, 2 Điều
54 PLTTTM và Điểm a Khoản 2 Điều 68 LTTTM, Toà án sẽ ra Quyết định huỷ
Phán quyết trọng tài nếu có đơn yêu cầu của một bên và nó thuộc một trong những
trường hợp liên quan đến thoả thuận trọng tài sau: “khơng có thỏa thuận trọng tài”
hoặc “thỏa thuận trọng tài vơ hiệu”. Trọng tài và Tịa án là hai thiết chế tài phán
hồn tồn khác nhau, Tịa án khơng phải là cấp trên của Trọng tài. Vì vậy, một khi
các bên đã có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực thì Tịa án khơng cịn có thẩm quyền
15
TS. Nguyễn Minh Chí- Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế bên cạnh Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Việt Nam (2009), “Kỷ yếu hội thảo về dự thảo luật trọng tài thương mại tổ chức tại Hà Nội các ngày 24 và
25/09/2009”, Nhà pháp luật Việt- Pháp,
/>
16
nữa. Do đó, khi xác định thẩm quyền của Trọng tài, nhất thiết phải xem xét xem khi
nào thỏa thuận trọng tài tồn tại và khi nào thỏa thuận này có hiệu lực.
Thứ tư, thoả thuận trọng tài cịn có ý nghĩa khi ta xét mối quan hệ giữa thoả
thuận trọng tài với hiệu lực của Quyết định trọng tài. Một thoả thuận trọng tài hợp
pháp là cơ sở để Tồ án của một quốc gia cơng nhận và cho thi hành Phán quyết của
trọng tài nước ngoài tại quốc gia mình. Theo đó, pháp luật trọng tài nước ta hiện
nay qui định: Phán quyết trọng tài bị huỷ nếu có đơn yêu cầu của một bên và thuộc
trường hợp “khơng có thoả thuận trọng tài” hoặc “thoả thuận trọng tài vô hiệu”
(Điểm a Khoản 2 Điều 68 LTTTM 2010).
Điều V Công ước New York, tại Khoản 1 điểm a qui định như sau: “Việc
công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi
hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc cơng nhận và
thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng: các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo
luật áp dụng đối với các bên, khơng có đủ năng lực, hoặc thỏa thuận nói trên khơng
có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu khơng có chỉ dẫn về điều
này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định”. Luật Mẫu UNCITRAL sau đó cũng
qui định tương tự tại Điều 34.
Tóm lại, sau khi Phán quyết trọng tài được tuyên ở một quốc gia, một bên có
thể yêu cầu Tịa án có thẩm quyền ở nước đó hủy phán quyết vì một số lý do nhất
định. Các lý do này không liên quan đến nội dung Phán quyết trọng tài mà liên quan
đến thỏa thuận trọng tài và thủ tục tố tụng. Như vậy, thoả thuận trọng tài hợp pháp
là một trong những điều kiện để Phán quyết trọng tài có liên quan được thi hành
trên thực tế. Những qui định của Luật Trọng tài thương mại nước ta về thoả thuận
trọng tài đã phần nào khắc phục được những hạn chế của PLTTTM trước đây, đồng
thời thu hẹp hơn khoảng cách, sự khác biệt cũng như tăng cường sự thống nhất, làm
cho pháp luật về Trọng tài thương mại của Việt Nam tương thích với pháp luật về
Trọng tài Thương mại quốc tế và của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, điều đó
khơng có nghĩa là pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam hiện nay đã thực
sự hồn thiện, ít nhất là đối với những nội dung về thoả thuận trọng tài.
1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài và hậu
quả pháp lí của thỏa thuận trọng tài
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dựa trên sự thống
nhất thỏa thuận của các bên nên cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thực
hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Nguyên tắc này
làm phát sinh hai yêu cầu: thứ nhất, ở chừng mực mà các thỏa thuận khơng trái
pháp luật và đạo đức xã hội thì Nhà nước phải thừa nhận những thỏa thuận đó. Thứ
hai, pháp luật phải bảo đảm đến mức tối đa cơ hội cho các bên thỏa thuận về
phương thức giải quyết tranh chấp.
17
Xuất phát từ tầm quan trọng của thoả thuận trọng tài trong phương thức giải
quyết tranh chấp bằng con đường Trọng tài, cũng như việc tơn trọng mong muốn, ý
chí của các bên khi kí kết thoả thuận trọng tài mà pháp luật các nước cũng như
thông lệ quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng ln dành cho thoả
thuận trọng tài một vị trí thích đáng trong các qui định của pháp luật về trọng tài. Cụ
thể, LTTTM đã dành hẳn Chương 2 để qui định chi tiết các vấn đề liên quan đến
thoả thuận trọng tài.
Liên quan đến thoả thuận trọng tài, quan trọng nhất phải kể đến là các yếu tố
liên quan đến hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Các yếu tố đó, theo tác giả có thể
được phân thành các nhóm sau: nhóm điều kiện về chủ thể kí kết thoả thuận trọng
tài; nhóm điều kiện về hình thức của thoả thuận trọng tài; nhóm điều kiện về nội
dung của thoả thuận trọng tài (hay đối tượng của thoả thuận trọng tài); và nhóm các
điều kiện khác.
Như vậy, một thoả thuận trọng tài nếu không đáp ứng được đầy đủ những điều
kiện nói trên sẽ bị coi là vơ hiệu theo qui định của pháp luật về trọng tài. Một khi
thoả thuận trọng tài vô hiệu sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định.
Về hậu quả pháp lí của thỏa thuận trọng tài vô hiệu, tuỳ thuộc vào thời điểm
phát hiện mà cách khắc phục cũng như cách giải quyết sẽ khác nhau. Cụ thể, dựa
vào thời điểm phát hiện và hậu quả pháp lí có thể xảy ra 3 trường hợp sau:
Thứ nhất, thoả thuận trọng tài được phát hiện là vô hiệu khi tranh chấp chưa
xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng chưa được bất kì một cơ quan tài phán nào thụ lí giải
quyết. Trong trường hợp này, nếu các bên vẫn cịn thiện chí đưa tranh chấp ra giải
quyết tại trọng tài thì có thể kí kết một thoả thuận khác khắc phục những sai sót
(nếu có thể) đã làm cho thoả thuận trọng tài đã xác lập trước đó bị vơ hiệu để thay
thế; ở đây, thoả thuận mới được xác lập được coi là thoả thuận hợp pháp. Ngược lại,
nếu một trong các bên hoặc cả hai bên không thể ngồi lại để bàn bạc, đàm phán với
nhau hoặc nguyên nhân làm cho thoả thuận trọng tài vô hiệu không thể khắc phục
được (trường hợp tranh chấp không thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài) thì khi này, Tịa án hồn tồn có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp giữa các
bên vì thỏa thuận trọng tài khơng thể làm phát sinh thẩm quyền của Trọng tài. Đây
chính là trường hợp ngoại lệ của Điều 6 LTTTM: “trừ trường hợp thỏa thuận trọng
tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Thứ hai, thoả thuận trọng tài bị phát hiện là vơ hiệu khi Trọng tài đã thụ lí giải
quyết. Theo Khoản 1 Điều 43 LTTTM thì trước khi xem xét nội dung vụ tranh
chấp, Hội đồng Trọng tài phải xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài và thẩm
quyền của chính mình; do đó, Hội đồng Trọng tài sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết tranh chấp và thông báo ngay cho các bên biết. Trong trường hợp không đồng
ý với quyết định của Hội đồng Trọng tài qui định tài Điều 43 LTTTM (ở đây ta
đang xét là Quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp với lí do thoả thuận trọng tài
18
vô hiệu), trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được Quyết định của
Hội đồng Trọng tài, các bên có quyền gửi đơn u cầu Tồ án có thẩm quyền xem
xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài (Khoản 1 Điều 44 LTTTM). Quyết định
của Toà án trong trường hợp này là quyết định cuối cùng (Khoản 5 Điều 44
LTTTM).
Về vấn đề này, trước đây, PLTTTM khơng qui định về hệ quả của việc đình
chỉ giải quyết tranh chấp nói chung và đình chỉ giải quyết tranh chấp do thoả thuận
trọng tài vơ hiệu nói riêng. LTTTM đã bổ sung vấn đề này. Theo đó, Khoản 3 Điều
59 LTTTM qui định: “Khi có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp, các bên
khơng có quyền khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp đó nếu việc
khởi kiện vụ tranh chấp sau khơng có gì khác với vụ tranh chấp trước về nguyên
đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp qui định tại
điểm c và điểm đ khoản 1 Điều này”.
Như vậy, khi vụ tranh chấp đã được đình chỉ giải quyết, các bên khơng có
quyền khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp đó ngoại trừ hai
trường hợp qui định tại điểm c và điểm đ Khoản 1 Điều 59 nói trên. Và trường hợp
tranh chấp bị đình chỉ giải quyết vì lí do thoả thuận trọng tài vơ hiệu thuộc một
trong các ngoại lệ kể trên. Nghĩa là, khi tranh chấp bị đình chỉ giải quyết thuộc
trường hợp thoả thuận trọng tài vơ hiệu thì vụ việc khi này cũng tuỳ thuộc vào ý chí
và mong muốn của các bên tranh chấp. Nếu các bên vẫn mong muốn vụ việc được
giải quyết bằng con đường Trọng tài thì có thể xác lập một thoả thuận trọng tài mới
hợp pháp, khắc phục được những sai sót của thoả thuận bị vơ hiệu trước đó. Có ý
kiến cho rằng ngoại lệ này áp dụng cho điểm đ khoản 1 Điều 5916 là “khó hiểu”17.
Cũng theo quan điểm trên thì qui định này là khơng khả thi nếu các bên khơng có
thoả thuận mới hợp pháp. Bởi khi thoả thuận đã không thuộc thẩm quyền của Trọng
tài thì việc các bên có thể u cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp đối với trường
hợp này là khơng có ý nghĩa vì nếu các bên tiếp tục yêu cầu Trọng tài giải quyết
tranh chấp thì Trọng tài cũng khơng có thẩm quyền giải quyết. Về vấn đề này, tác
giả khơng hồn tồn đồng ý với quan điểm trên vì qui định trên cũng áp dụng đối
với trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu, mà theo như đã đề cập ở các phần trước
của khoá luận này thì có rất nhiều yếu tố làm cho một thoả thuận trọng tài bị vô hiệu
(về chủ thể, về hình thức, về nội dung và một số lí do khác…). Do đó, đối với
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do lĩnh vực tranh chấp không thuộc phạm vi
thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thì tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm trên
16
Điểm đ Khoản 1 Điều 59 Luật Trọng tài thương mại 2010:
“1. Vụ tranh chấp dược đình chỉ giải quyết trong các trường hợp sau đây:…
đ) Toà án đã quyết định vụ tranh chấp khong thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, khơng có thoả thuận
trọng tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể tực hiện được theo qui định tại
Khoản 6 Điều 44 của Luật này”.
17
Tiến sỹ Đỗ Văn Đại và Tiến sỹ Trần Hoàng Hải (2011), “Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại”,
NXB Chính trị quốc gia, tr.260.
19
nhưng đối với trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu do khơng đảm bảo điều kiện
về mặt hình thức hay về chủ thể thì vẫn có khả năng khắc phục được. Ví dụ: lập một
thoả thuận trọng tài mới đáp ứng điều kiện về mặt hình thức hoặc thay chủ thể có
thẩm quyền kí kết thoả thuận trọng tài phù hợp qui định của pháp luật. Khi đó, thiết
nghĩ thoả thuận trọng tài mới hoàn toàn hợp pháp và do đó, các bên hồn tồn có
quyền u cầu Trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp giữa họ nếu có nhu cầu.
Tuy nhiên, Điều 59 LTTTM chỉ qui định các bên khơng có quyền khởi kiện
u cầu Trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp mà không qui định rõ các bên có
quyền khởi kiện ra Tồ án hay không nếu các bên không thể cùng nhau xác lập một
thoả thuận trọng tài mới hợp pháp? Thiết nghĩ, việc có thoả thuận lại hay khơng
trong trường hợp này là hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của các bên theo nguyên tắc
tự nguyện; do đó, trường hợp các bên khơng thoả thuận được thì họ vẫn có đầy đủ
quyền khởi kiện tranh chấp ra Tồ án có thẩm quyền. Khoản 6 Điều 44 LTTTM
cũng đã qui định: “Trong trường hợp Tồ án quyết định vụ tranh chấp khơng thuộc
thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, khơng có thoả thuận trọng tài, thoả thuận
trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được, Hội đồng
trọng tài ra quyết đình chỉ giải quyết tranh chấp. Nếu khơng có thoả thuận khác,
các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Toà án, thời hiệu khởi kiện ra Toà án
được xác đinh theo qui định của pháp luật. Thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện
tại Trọng tài đến ngày Tồ án ra quyết định thụ lí giải quyết vụ tranh chấp khơng
tính vào thời hiệu khởi kiện”.
Từ qui định trên đây có thể suy luận rằng, pháp luật trọng tài hoàn toàn cho
phép các bên khởi kiện vụ tranh chấp ra Toà án nếu họ đáp ứng được yêu cầu về
thời hiệu khởi kiện của pháp luật, ở đây là thời hạn theo qui định của BLTTDS
2004. Theo đó, ta nên hiểu qui định tại khoản 3 Điều 59 LTTTM khi đề cập đến
quyền của các bên yêu cầu Trọng tài giải quyết lại tranh chấp giữa họ theo hướng
các bên thoả thuận xác lập một thoả thuận trọng tài mới hợp pháp. Và trường hợp
những sai sót trong thoả thuận trọng tài khơng thể khắc phục được hoặc các bên
không thoả thuận được lại với nhau thì vụ việc thuộc thẩm quyền của Tồ án nếu
đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh doanh thương
mại theo BLTTDS 2004 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Thứ ba, thoả thuận trọng tài được phát hiện vô hiệu khi tranh chấp đã được
Trọng tài giải quyết bằng một Phán quyết trọng tài. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều
trường hợp sau khi Hội đồng trọng tài đã ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp
giữa các bên nhưng sau đó, Phán quyết trọng tài đã tuyên bị một bên u cầu Tồ án
có thẩm quyền huỷ vì lí do thoả thuận trọng tài vô hiệu. Theo như qui định mới của
LTTTM thì dường như đây là một điều vơ lí và khó có thể xảy ra. Bởi lẽ, nếu
PLTTTT trước đây (Điều 5) và LTTTT hiện nay (Điều 6) đều qui định Tồ án có
quyền xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài khi có yêu cầu của một trong các
20