BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
----------*----------
SV: LÊ THU THẢO
MSSV: 1055030247
CÁC TỘI PHẠM VỀ KHỦNG BỐ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2010 – 2014
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
GV Trường Đại học Luật TP. HCM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi,
không trùng lắp với bất cứ một cơng trình nào khác.Các số liệu, thơng
tin được phân tích, tổng hợp, thống kê trong đề tài được thu thập từ
các cơ quan chức năng có thẩm quyền, từ các nguồn tài liệu tham
khảo đáng tin cậy và chính xác.
Người cam đoan
LÊ THU THẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANĐT:
An ninh điều tra.
ANQG:
An ninh quốc gia.
ASEAN:
Association of Southeast Asia Nations
HiệphộiCácquốcgiaĐông Nam Á
BCA:
Bộ Công an.
BLHS:
Bộ luật Hình sự.
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự.
BQP:
Bộ Quốc phịng.
BTP:
Bộ Tư pháp.
CAND:
Cơngannhândân
CHND:
Cộnghịanhândân.
CHXHCN:
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa.
ĐƯQT:
Điềuướcquốctế.
GS.TS:
Giáosư, Tiếnsỹ.
LHQ:
Liên Hợp Quốc.
NHNNVN:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
PGS.TS:
PhóGiáosư, Tiếnsỹ.
TAND:
Tịa án nhân dân.
TANDTC:
Tịa án nhân dân tối cao.
TP:
Thànhphố.
TS:
Tiếnsỹ.
TTLT:
Thông tư liên tịch.
TTLT:
Thôngtưliêntịch.
ThS:
Thạcsỹ.
VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG BỐ
14
1.1. Kháiniệmkhủngbố
14
1.1.1. Mộtsốquanniệmtrênthếgiớivềkhủngbố
14
1.1.2. QuanđiểmcủaViệt Nam vềkhủngbố
20
1.2. TộiphạmkhủngbốtronglịchsửlậpphápHìnhsựViệt Nam
26
1.2.1. Giaiđoạntrướcnăm 1999
26
1.2.2. TộiphạmkhủngbốtrongBộluậtHìnhsựhiệnhành
30
1.3. Tộiphạmkhủngbốtrongluậtphápquốctế
34
1.3.1. CácĐiềuướcquốctếvềphịngchốngkhủngbố
34
1.3.2.
TộiphạmkhủngbốtheoquyđịnhtrongBộluậtHìnhsựcủamộtsốnướctrênthếgiới
37
Chương 2. QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ TRONG
LUẬTHÌNH SỰ VIỆT NAM - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
43
2.1. QuyđịnhvềcáctộiphạmkhủngbốtheoBộluậtHìnhsự 1999 (đượcsửađổi,
bổ sung năm 2009)
2.1.1.
Tộikhủngbốnhằmchốngchínhquyềnnhândân
BộluậtHìnhsự)
43
(Điều
84
43
2.1.1.1. Dấuhiệupháplý
44
2.1.1.2. Hìnhphạt
47
2.1.2. Tộikhủngbố (Điều 230a BộluậtHìnhsự)
48
2.1.2.1. Dấuhiệupháplý
50
2.1.2.2. Hìnhphạt
54
2.1.3. Tộitàitrợkhủngbố (Điều 230b BộluậtHìnhsự)
55
2.1.3.1. Dấuhiệupháplý
56
2.1.3.2. Hìnhphạt
59
2.2.
So
sánhcáctộiphạmvềkhủngbốvớimộtsốtộiphạmcóliênquantrongBộluậtHìnhsự
2.2.1.
62
So
sánhtộiphạmkhủngbốvớicáctộiphạmkháctrongnhómtộixâmphạmAn
62
ninhquốcgia
2.2.2. So sánhtộiphạmkhủngbốvớicáctộixâmphạmtínhmạng, sứckhỏe,
nhânphẩmdanhdựcủa con người; xâmphạmquyềntự do, dânchủcủacơngdân
64
2.2.3. So sánhtộiphạmkhủngbốvớicáctộixâmphạmsởhữu
67
73
2.3. ThựctiễnápdụngcácquyđịnhcủaBộluậtHìnhsựvềtộiphạmkhủngbố
75
2.4.
68
MộtsốkiếnnghịnhằmhồnthiệnphápluậtHìnhsựvềphịng,
chốngkhủngbốtrongtìnhhìnhhiện nay
73
81
2.4.1.MộtsốkiếnnghịnhằmhồnthiệnBộluậtHìnhsự
73
81
2.4.2.Mộtsốkiếnnghịnhằmnângcaohiệuquảápdụngphápluật
81
90.
KẾT LUẬN
90
101.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khủng bố là một trong những loại hành vi đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm
đến tính mạng, sức khoẻ của con người và ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của các
quốc gia và cả cộng đồng quốc tế. Trong những năm qua, đặc biệt là sau vụ
khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ, tình hình khủng bố quốc tế và khu vực diễn
biến phức tạp, lan rộng ra khắp các châu lục. Mục tiêu mà hoạt động khủng bố
hướng tới chủ yếu là tấn cơng nhằm vào các chính trị gia, các quan chức chính
quyền cấp cao, những nơi đơng người… với những mưu đồ và mục đích khác
nhau. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, các đối tượng khủng bố có xu hướng liên
kết với nhau nhằm tiến hành những hoạt động khủng bố mới với nhiều phương
thức tấn công đặc biệt nguy hiểm như khủng bố qua nguồn nước, nguồn thực
phẩm, khủng bố sinh hóa…với những thủ đoạn hết sức tinh vi và xảo
quyệt.“Theo thống kê chưa đầy đủ, từ đầu năm 2012 đến nay, trên thế giới đã xảy
ra 239 vụ khủng bố ở 20 nước, làm 1.502 người chết, 3.719 người bị thương và
gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác”[96 - tr.51].Tất cả đãđe dọa nghiêm
trọng đến hịa bình, ổn định và để lại những hậu quả nặng nề cho nhiều quốc gia
trên thế giới.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm khủng bố trên thế
giới, Liên Hợp Quốc đã cho thành lập Cơ quan An ninh bảo vệ nhân viên ở 150
nước trên thế giới, đồng thời thông qua Công ước quốc tế về ngăn chặn hành
động khủng bố bằng hạt nhân, đặc biệt ngày 08/09/2006 Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc đã thông qua chiến lược toàn cầu về chống khủng bố… Tất cả những việc
làm trên đều thể hiện quyết tâm đấu tranh, ngăn chặn hoạt động khủng bố và tội
phạm khủng bố của tồn thể nhân loại u chuộng hịa bình.
Ở Việt Nam, mặc dù chưa xảy ra vụ khủng bố nào do các tổ chức khủng bố
quốc tế gây ra, tuy nhiên từ năm 2000 đến nay đã có 4 vụ khủng bố do đối tượng
phản động lưu vong người Việt câu kết với các đối tượng phản động, đối tượng
hình sự khác trong nước thực hiện được phát hiện, điều tra, xử lý. Bên cạnh đó,
Cơ quan An ninh đã phát hiện nhiều đối tượng khủng bố quốc tế xâm nhập vào
Việt Nam với các mục đích ngụy trang khác nhau, đồng thời cũng đã phát hiện
một số đối tượng phản động trong nước có liên lạc, quan hệ với một số tổ chức
khủng bố, Hồi giáo cực đoan trên thế giới và khu vực Đông Nam Á để thực hiện
các hoạt động có dấu hiệu liên quan tới khủng bố. Cơ quan An ninh cũng đã phát
hiện hàng trăm đối tượng phản động lưu vong người Việt xâm nhập nội địa,
mang theo hàng tấn thuốc nổ, vũ khí và phương tiện kỹ thuật nhằm sử dụng để
thực hiện khủng bố, phá hoại. Những hoạt động trên đã trực tiếp gây nguy hại
cho An ninh quốc gia của Việt Nam, đe dọa đến sự ổn định và vững mạnh của
chính quyền nhân dân và sự tồn vẹn của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là một thành viên của Liên Hợp Quốc, có truyền thống tơn trọng và u
chuộng hịa bình, với mong muốn góp phần vào việc ổn định an ninh quốc tế,
đồng thời với việc nhận thức được tính chất đặc biệt nguy hiểm của tội phạm
khủng bố, thời gian qua Việt Nam đã tham gia hầu hết cácĐiều ước quốc tế đa
phương của Liên Hợp Quốc về chống khủng bố; ký kết nhiều hiệp định, thỏa
thuận song phương về hợp tác phòng, chống khủng bố với hơn 10 hiệp định liên
quan đến tương trợ tư pháp, dẫn độ; tích cực nghiên cứu khả năng gia nhập năm
Điều ước quốc tế còn lại1. Đặc biệt, các cơ quan, ban ngành ở Việt Nam đã ban
hành nhiều luật, bộ luật, nghị quyết, quyết định có liên quan đến hoạt động
khủng bố như: Bộ luật Hình sự 1999(sửa đổi, bổ sung năm 2009),Luật ANQG
năm 2004, Luật phòng chống khủng bố năm 2013, Nghị quyết số 08/NQ-TƯ của
Bộ Chính trị về Chiến lược ANQG… Tất cả đã thể hiện thái độ kiên quyết, nhất
quán của Việt Nam trong phát hiện, ngăn chặn và trừng trị loại tội phạm này.
1
Cơng ước NewYork về chống bắt cóc con tin, Cơng ước Viên về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân,
Công ước về đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết, Công ước NewYork về trừng trị khủng bố bằng bom
và Công ước NewYork về ngăn chặn hành vi khủng bố hạt nhân.
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, công tác phòng chống, đấu
tranh và xử lý với loại tội phạm này tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo
gỡ, giải quyết: quy định về tội phạm khủng bố nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp
luật, chưa có sự thống nhất trong các quy định; một số văn bản luật có liên quan
đến tội phạm khủng bố vẫn chưa được quy định và hướng dẫn thực hiện một
cách rõ ràng, cụ thể; vẫn còn tồn tại những điểm khác biệt trong quan điểm về
khủng bố giữa Bộ luật Hình sự Việt Nam với thế giới… Vì vậy, việc nghiên các
tội phạm khủng bố trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng cả về
mặt lý luận lẫn thực tiễn.Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài
“Các tội phạm về khủng bố trong Luật Hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” để làm khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Luật Hình sự.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Một số tác giả nước ngồi với cơng trình tiêu biểu:
- Anthony - H.Cordosman, “Chiến lược phịng thủ quốc gia chống vũ khí
sinh học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2002). Nội dung cuốn sách tập trung
phân tích việc sản xuất vũ khí sinh học và chiến lược phịng thủ quốc gia bằng vũ
khí sinh học của Mỹ và một số nước, vũ khí này có thể rơi vào tay các tổ chức
khủng bố, đồng thời tác giả đưa ra quan điểm cá nhân đánh giá về vấn đề này.
- Năm 2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã cho xuất bản cuốn sách
mang tên “Chủ nghĩa khủng bố và chính sách đối ngoại của Mỹ” của tác giả Paul
Pillar. Với cuốn sách tác giả đã đưa ra một số quan điểm về chủ nghĩa khủng bố,
phân tích đánh giá về chính sách đối ngoại hai mặt của Mỹ và việc chính quyền
Mỹ lợi dụng chống khủng bố để lôi kéo đồng minh thực hiện âm mưu bá chủ thế
giới.
- Là một cuốn sách hay viết về một trong những vấn đề đang rất được quan
tâm hiện nay,đó chính là an tồn hàng khơng quốc tế, hai tác giả Stepan Shoan và
Douglas Nelms với tác phấm “Đánh giá chiến lược an tồn hàng khơng năm
2000 và xa hơn” được Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản vào năm 2002.
Cuốn sách đã đề cập tới an ninh hàng không quốc tế, những sơ hở, thiếu sót trong
việc kiếm sốt an ninh, phịng ngừa hoạt động khủng bố, đồng thời đưa ra một số
nhận định về sự an tồn hàng khơng trong thời gian tới.
- “Chống khủng bố toàn cầu nhưng nguy cơ khủng bố vẫn tăng” là tựa đề
bài báo của tác giả Dương Hồng Tỷ (Trung tâm nghiên cứu thế giới đương đại
Trung Quốc, năm 2004).Nội dung bài báo này chủ yếu đề cập đến việc xây dựng
hệ thống hợp tác chống khủng bố, vai trò của LHQ trong chống khủng bố, một số
bài học kinh nghiệm rút ra trong cuộc chiến chống khủng bố của cộng đồng quốc
tế.
- Cũng là một bài báo viết về vấn đề có liên quan đến khủng bố, nhưng dưới
một góc độ nhìn nhận hồn tồn mới mẻ, tác giả Tăng Cường (Chuyên viên
nghiên cứu các vấn đề quốc tế thuộc Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại
Trung Quốc) đã cho người đọc nhận diện được xung đột dân tộc và mối quan hệ
với hoạt động buôn bán vũ khí có liên quan đến hoạt động khủng bố của các tổ
chức khủng bố quốc tế ở khu vực Đông Nam Á thông qua bài viết với tựa đề
“Nhãn quan về nghiên cứu xung đột dân tộc” (Năm 2004).
- Với việc phê phán quan điểm, đường lối chính sách phịng, chống khủng
bố của chính quyền Mỹ, tác giả John Gershman (Trung tâm nguồn lực liên bán
cầu - IRC, biên tập viên khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tạp chí
“Foreign Policy in Focus”, năm 2004) đã thể hiện rất rõ ràng quan điểm của
mình thơng qua tác phẩm“Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố và những thất
bại trong đường lối của chính quyền Mỹ”.
- You Ji (Tạp chí Association for Asia Research - Mỹ, năm 2004) cũng đã có
bài viết “Chiến lược chống khủng bố của Trung Quốc”. Nội dung bài báo đề cập
nguồn gốc nảy sinh khủng bố ở Trung Quốc và nỗ lực chống khủng bố ở Trung
Quốc.
- Với bài báo tựa đề “Nhận thức của cộng đồng quốc tế về chủ nghĩa khủng
bố”, hai tác giả Trương Gia Đồng và Thẩm Đình Lập (Tạp chí kinh tế và chính
trị Trung Quốc, năm 2003) đã tỏ rõ quan điểm khi phê phán một số nước và các
tổ chức quốc tế thiếu nhất quán trong nhận thức về chủ nghĩa khủng bố, phê phán
Mỹ và phương Tây lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để thực hiện âm mưu bá
chủ thế giới.
- Cũng là một trong những quốc gia đang diễn ra rất nhiều vấn đề phức tạp
liên quan đến tội phạm khủng bố, hơn ai hết Trung Quốc cũng đang có nhiều nỗ
lực trong việc cùng với cộng đồng quốc tế nhằm chống lại loại tội phạm nguy
hiểm này. Năm 2003, với bài viết “Vai trò của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc
trong chống khủng bố quốc tế và giữ gìn hịa bình an ninh thế giới”, trợ lý Bộ
Trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc là Thẩm Quốc Phong đã đề cập tới những
vấn đề Trung Quốc đang quan tâm như an ninh tồn cầu, vai trị và phương
hướng của Hội đồng bảo an LHQ trong gìn giữ hịa bình thế giới. Thực chất là
thể hiện quan điểm của Trung Quốc về chống khủng bố, Trung Quốc phản đối
Mỹ và phương Tây lợi dụng chống khủng bố đẻ can thiệp vào Trung Quốc, hoặc
lấn át ảnh hưởng, tranh giành lợi ích của Trung Quốc ở khu vực Trung Đông.
- Năm 1993, với cơng trình nghiên cứu mang tên “Đụng độ giữa các nền
văn minh và sự sắp xếp lại trật tự thế giới”, nhà nghiên cứu, chuyên gia chính trị
- đối ngoại Hoa Kỳ là Samuel Hunting đã cho thấy quan điểm chủ quan của mình
với việc nhận định: Sau Chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang một hệ thống với
chủ thể là các nền văn minh khác nhau, khó có thể tránh khỏi việc đụng độ nhau.
Tác giả đã chia thế giới hiện nay thành hai nền văn minh là văn minh phương
Tây và văn minh không phải là phương Tây. Cuối cùng, tác giả đưa ra kết luận là
nền dân chủ phương Tây sẽ phải đối mặt với chủ nghĩa cực đoan, trào lưu chính
thống của các nền văn minh khác và phải chuẩn bị sẵn sàng trước thách thức mới
của lịch sử. Thực tế Samuel Hunting phủ nhận nguyên nhân về kinh tế và chính
trị dẫn đến xung đột, giải thích xung đột và khủng bố là do đối đầu về văn minh tơn giáo… “Cơng trình khoa học mang tính “học thuyết” này phù hợp với quan
điểm chính trị đối ngoại của Chính quyền Mỹ, vì vậy đã được Tổng thống Mỹ
G.Bush sử dụng để diễn thuyết về nguyên nhân dẫn đến khủng bố” [80 - tr.11]. Mỹ
tiến hành cuộc chiến chống khủng bố là “khách quan”, “sứ mệnh” của Mỹ là tiêu
diệt khủng bố, việc Mỹ và phương Tây viện trợ dân chủ, nhân quyền cho các nước
có khủng bố là nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa các nền văn minh, từ đó giải quyết
triệt để chủ nghĩa khủng bố.
- Phân tích về hoạt động khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố, chủ yếu
là đề cập tới đường lối chống khủng bố của Mỹ, Châu Âu và Nga, vấn đề chiến
lược, chính sách của Mỹ với thế giới sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 cũng như
chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến xung đột ở một số quốc gia trên thế giới, vạch trần
âm mưu lợi dụng chống khủng bố để thống trị thế giới của Mỹ và phương Tây,
đây là nội dung chính của cuốn sách mang tên “Thế giới sau 11 tháng
9”doEvgheny Primacov (Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên bang Nga, nguyên
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Giám đốc Cơ quan tình báo đối ngoại Nga)
vàođược xuất bản vào năm 2002.
Như vậy, ở nước ngồi, tuy đã có một số cơng trình nghiên cứu về một số
khía cạnh về khủng bố hoặc cuộc chiến chống khủng bố, tuy nhiên theo ý kiến
chủ quan của tác giả hầu hết những bài viết, bài báo hay cơng trình nghiên cứu
trên vẫn chưa tồn diện, kết quả nghiên cứu chưa thực sự khách quan.
Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước:
Thời gian vừa qua, đã có một số nhà khoa học, một số tác giả Việt Nam
nghiên cứu về hoạt động khủng bố hoặc chống khủng bố. Cụ thể là:
Ở ngồi ngành Cơng an: Có một số tác giả là cán bộ,nhà khoa học của bộ,
ngành, chủ yếu Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, báo chí…có một số bài viết nghiên
cứu về khía cạnh luật pháp quốc tế, luật pháp của Việt Nam đề cập tới việc điều
chỉnh tội phạm khủng bố; lập trường, quan điểm chính trị, đối ngoại của các
nước như Mỹ, phương Tây, Nga, Trung Quốc về cuộc chiến chống khủng bố.
Phần lớn nội dung những bài viết này là phân tích, bình luận của tác giả hoặc tập
hợp các bài bình luận của một số nhà nghiên cứu ở trong và ngồi nước về vấn
đề chính trị, xã hội, luật pháp, ngoại giao, về sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ và
các nước sau “sự kiện 11/9/2001”; những toan tính lợi ích của các nước lớn
trong cuộc chiến chống khủng bố; những cố gắng chống khủng bố hoặc một số
kinh nghiệm của các nước và khu vực trong cuộc chiến chống khủng bố…Trong
đó có liên hệ tới Việt Nam và khẳng định Việt Nam phản đối hoạt động khủng bố
của các tổ chức quốc tế dưới bất cứ hình thức nào, phản đối việc lợi dụng cuộc
chiến chống khủng bố phục vụ âm mưu chính trị, can thiệp vào nội bộ của nước
khác.
Ở trong ngành Cơng an: Với vai trị là lực lượng nồng cốt của Đảng, Nhà
nước giao nhiệm vụ bảo vệ ANQG, trực tiếp tổ chức hoạt động phòng, chống
khủng bố. “Những năm qua, mặc dù ở nước ta chưa xảy ra vụ việc khủng bố
quốc tế, nhưng hoạt động khủng bố của các loại đối tượng, mà trước hết và chủ
yếu là của các tổ chức phản động người Việt lưu vong đã nhằm vào một số mục
tiêu của Việt Nam ở trong nước hoặc ở nước ngoài” [80 - tr.13,14]. Trên thực tế,
lực lượng Công an đã tổ chức lực lượng, sử dụng biện pháp, công tác nghiệp vụ
để đấu tranh ngăn chặn, vơ hiệu hóa, khơng để cho đối tượng khủng bố gây ra
hậu quả tác hại cho Việt Nam. Vì thế, trong lực lượng Cơng an, thời gian qua đã
có một số cơng trình của một số tác giả là cán bộ lãnh đạo, nhà khoa học hoặc
giáo viên trong lực lượng Công an nghiên cứu xoay quanh vấn đề hoạt động
khủng bố hoặc chống khủng bố. Một số cơng trình tiêu biểu như:
- Được xem là một trong những tài liệu chuyên ngành quan trọng phục vụ
cho quá trình học tập, nghiên cứu của các học viên ở các trường CAND, cuốn
sách “Phòng, chống hoạt động khủng bố” do GS.TS Phạm Ngọc Hiền, PGS.TS
Bùi Trung Thành, TS Phạm Hồng Trường (Học viện ANND) phối hợp biên soạn
năm 2008, với nội dung chủ yếu là đưa ra là các biện pháp và một số chiến thuật
của lực lượng An ninh trong xử lý hoạt động khủng bố theo Điều 84 -BLHS. Tuy
nhiên, nội dung rất cô động, chưa đề cập tới những giải pháp chung và giải pháp
cụ thể áp dụng cho tồn ngành Cơng an trong phịng ngừa, phát hiện và đấu tranh
vơ hiệu hóa, ngăn chặn hoạt động khủng bố của tất cả các loại đối tượng.
- Năm 2002, đề tài khoa học cấp Bộ mang tên“Những giải pháp cơ bản
phòng, chống khủng bố ở nước ta trong tình hình hiện nay” của nhóm tác giả:
TS. Bùi Trung Thành, các ThS. Tạ Văn Roan, Trần Cao Phong, Khuất Duy
Thanh (Học viện ANND) đã đề cập đến một số giải pháp cơ bản của lực lượng
An ninh với loại đối tượng chủ yếu là người Việt phản động lưu vong. Mặt khác,
ở vào thời điểm đề tài này nghiên cứu, trên phạm vi quốc gia nói chung và lực
lượng Cơng an nói riêng chưa có sự phân cơng lực lượng chun trách về phịng,
chống khủng bố. Vì vậy, những giải pháp mà các tác giả đưa ra cũng chỉ mang
tính định hình và những giải pháp này chỉ đề cập một số khía cạnh phịng, chống
khủng bố của lực lượng An ninh, chưa đề cập tới hoạt động phòng, chống khủng
bố của cả lực lượng Cơng an (chưa có tính tồn ngành).
- Là một trong những chuyên gia đầu ngành chuyên nghiên cứu về các tội
phạm khủng bố, trong nhiều năm qua ThS. Tạ Văn Roan (Học viện ANND) đã
có rất nhiều các bài báo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành của lực lượng
Công an như bài viết“Nâng cao cảnh giác chủ động phát hiện từ xa hoạt động
khủng bố chống Việt Nam của các thế lực thù địch”, Tạp chí Cơng an nhân dân
số 4/2004 hay “Một số vấn đề về công tác phòng ngừa hoạt động khủng bố ở Việt
Nam hiện nay” được đăng trên Tạp chí cơng an nhân dân số 11/2007,…
- Khi nghiên cứu việc hoàn thiện những quy định về các tội phạm khủng bố
của luật trong nước thì một trong những vấn đề quan trọng là chúng ta cần có sự
xem xét, tìm hiểu, đối chiếu với quy định của một số các quốc gia trên thế giới
cũng như cộng đồng quốc tế để có được một cái nhìn khách quan và tồn diện
nhất. Hiểu rõ được vấn đề trên, tác giả Hoàng Mạnh Chiến (A24, Bộ Công
an)đãđề cập tới quan niệm của Mỹ về “chủ nghĩa khủng bố” và liên hệ pháp luật
Việt Nam thông qua bài viết “Nhận dạng chủ nghĩa khủng bố”, Tư liệu khoa học
Công an, số tháng 3/2005.
- Cũng với nội dung đề cập về các khái niệm, luật pháp điều chỉnh tội phạm
khủng bố của một số nước và Việt Nam như trên, nhưng với một cái nhìn tổng
quát hơn PGS.TS Hồng Kơng Tư (Tổng cục I – Bộ Cơng an) đã có bài “Về khái
niệm khủng bố và tội phạm khủng bố”được đăng trên Bản tin Phòng, chống
khủng bố, số 5/2005.
- “Tìm hiểu về chủ nghĩa khủng bố và tội phạm khủng bố”, đây là bài viết
đề cập tới việc tìm hiểu “Chủ nghĩa khủng bố” và liên hệ tội phạm khủng bố theo
BLHS Việt Nam, năm 1999 đã quy định, được đăng trên Bản tin phòng chống
khủng bố, số 3/2007 của TS.Trần Văn Trình (V12, Bộ Cơng an).
- ThS. Trần Kim Tuyến (A42, Bộ Cơng an) cũng đã góp mặt trong Bản tin
phịng chống khủng bố, số 8+9/2007với bài viết “Cơng tác phòng, chống tội
phạm khủng bố của lực lượng An ninh trong tình hình mới”. Qua nội dung bài
viết, tác giả đề cập tới cơng tác phịng, chống tội phạm khủng bố của lực lượng
An ninh trong tình hình mới, mặc dù có đề cập về phương diện đấu tranh, nhưng
chủ yếu dưới dạng báo cáo cơng tác về một khía cạnh của một số biện pháp đấu
tranh ở một đơn vị trinh sát an ninh cụ thể, với một số loại đối tượng cụ thể, chủ
yếu là tổ chức phản động người Việt lưu vong.
Tổng hợp tình hình nghiên cứu của các cơng trình có liên quan đến vấn đề
khủng bố và chống khủng bố ở trong nước thời gian qua cho thấy, đối với các
cơng trình khoa học của các tác giả ngồi ngành Cơng an, khi nghiên cứu xoay
quanh vấn đề khủng bố hoặc chống khủng bố cho thấy nội dung của các cơng
trình chỉ đề cập tới một khía cạnh ở một lĩnh vực chun mơn, như luật pháp,
chính sách đối ngoại…mà chưa đi vào nghiên cứu toàn diện những vấn đề liên
quan đến khủng bố và phòng chống khủng bố theo quan điểm của Việt Nam.
Đối với các cơng trình khoa học của các tác giả trong ngành Cơng an, “mặc
dù có đề cập tới một số nội dung về chống khủng bố, nhưng đó chỉ là một số biện
pháp hoặc giải pháp cơ bản của lực lượng An ninh, hoặc kế hoạch xử lý một số
tình huống khủng bố khi xảy ra ở một mục tiêu cụ thể của một đơn vị An ninh
hoặc Cảnh sát, với vai trò là lực lượng tham gia phòng, chống khủng bố” [80 tr.17]. Vì vậy xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, vẫn còn rất nhiều vấn đề
cần tiếp tục được nghiên cứu như: quan niệm trên thế giới và của Việt Nam về
khủng bố, chủ nghĩa khủng bố, lý giải sự khác nhau trong quan niệm này; những
vấn đề có tính lý luận trong quan niệm của Việt Nam về khủng bố; thực trạng về
hoạt động khủng bố ở Việt Nam hiện nay; quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh bảo vệ ANQG và phòng, chống khủng bố; việc tổ chức
lực lượng, biện pháp trong phòng, chống khủng bố của lực lượng Công an như thế
nào để đảm bảo hiệu quả; đặc biệt là những giải pháp chung và giải pháp cụ thể về
kinh tế, chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, ngoại giao…trong phịng, chống khủng bố
của lực lượng Công an được áp dụng trên phạm vi toàn lãnh thổ. Mặt khác, thực
tiễn tổ chức hoạt động phịng, chống khủng bố của lực lượng Cơng an đang rất cần
được nghiên cứu tổng kết để rút ra những bài học kinh nghiệm, giải quyết những
vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn phòng, chống khủng bố, đề ra những giải pháp
mới trong tình hình hiện nay. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách tổng thể, chi
tiết cả về lý luận, thực tiễn hoạt động khủng bố và phịng, chống khủng bố, giải
pháp của lực lượng Cơng an (tồn ngành) trong phịng, chống khủng bố ở Việt
Nam hiện nay.
Trong phạm vi nguồn tài liệu ở Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, qua
tra cứu tác giả thấy có 2 cơng trình nghiên cứu về Tội phạm khủng bố trong Luật
Hình sự Việt Nam, đó là:
- Lê Quang Đạo, Tội khủng bố trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn
Thạc sỹ. TP. Hồ Chí Minh, 2011.
- Trần Thiên Thủy, Đấu tranh phòng chống tội phạm khủng bố, Luận văn
cử nhân. TP. Hồ Chí Minh, 2002.
Ngồi ra, đề tài về tội phạm khủng bố còn được nghiên cứu với phạm vi
rộng hơn khi nó được nhìn nhận dưới góc độ khủng bố quốc tế, theo đó có 3 cơng
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này cụ thể:
- Ngơ Hữu Phước,Đấu tranh phịng chống khủng bố quốc tế - Lý luận và
thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ. TP.Hồ Chí Minh, 2004).
- Nguyễn Thị Phương Hoa, Các tội phạm có tính chất quốc tế, Luận văn
Thạc sỹ Luật học. TP. Hồ Chí Minh, 2000.
- Nguyễn Phong Phú, Khủng bố quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn,Khóa luận tốt nghiệp. TP.Hồ Chí Minh, 2002.
Như vậy, từ trước đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống về các tội phạm khủng bố trong Luật Hình sự Việt Nam, cả trên phương diện
lý luận lẫn thực tiễn.Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên đều là những nguồn tham
khảo vơ cùng q báu và bổ ích, góp phần quan trọng giúp tác giả hồn thành tốt
khóa luận này.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các tội phạm về khủng bố trong luật Hình
sự Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của khóa luận tốt nghiệp là nghiên cứu một cách tồn diện và có
hệ thống về các quy định pháp lý liên quan đến các tội phạm khủng bố dưới góc
độ lý luận, đồng thời chỉ ra những bất cập, hạn chế khi cụ thể hóa những quy
định này trên thực tế thông qua việc giải quyết các vụ việc, từ đó đề xuất một số
giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm khủng bố.
Với mục đích trên, tác giả xác định cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Tìm hiểu tội phạm khủng bố trong lịch sử lập pháp Hình sự Việt Nam để
nhìn thấy được sự thay đổi rõ nét trong việc quy định về loại tội phạm này qua
các giai đoạn khác nhau.
- Đối chiếu, so sánh các quy định về tội phạm khủng bố trong pháp luật
Việt Nam, đặc biệt là các quy định trong BLHS 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) với pháp luật nước ngồi để có được một cái nhìn khái qt và toàn diện
nhất về loại tội phạm này cùng những vấn đề khác có liên quan, từ đó tiếp thu
một cách có chọn lọc những điểm mới tiến bộ trong pháp luật quốc tế về tội
phạm khủng bố, từ đó tạo cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể
nhằm hoàn thiện BLHS Việt Nam trong tương lai theo xu hướng hiện đại hóa và
hợp tác quốc tế.
- Phân tích để làm rõ những vấn đề lý luận chung về các tội phạm khủng
bố, bao gồm: phân tích cấu thành tội phạm của các tội khủng bố, phân biệt các tội
phạm khủng bố với một số tội phạm dễ gây nhầm lẫn khác trong BLHS.
- Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm khủng
bố, chỉ ra được ưu, nhược điểm và nguyên nhân từ kết quả của tình hình xử lý
các vụ việc.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm năng cao hơn nữa hiệu quả của việc áp
dụng các quy định của pháp luật Việt Nam trên thực tế trong việc xét xử các tội
phạm này cũng như nâng cao hơn nữa công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
khủng bố.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Về nội dung: Tác giả khơng đi sâu tìm hiểu về các nguyên nhân làm phát
sinh tội phạm khủng bố cũng như những đặc điểm của loại tội phạm này, mà ở
đây đề tài chủ yếu xem xét “khủng bố” dưới góc độ pháp lý - một tội phạm nguy
hiểm cần phải bị loại trừ ra khỏi đời sống nhân loại, đặc biệt là nghiên cứu các tội
phạm khủng bố được quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Về văn bản pháp luật nghiên cứu: Tác giả tìm hiểu các quy định trong
BLHS của một số nước trên thế giới cũng như quy định trong các công ước quốc
tế liên quan đến tội phạm khủng bố, đặc biệt tác giả tập trung nghiên cứu sâu các
tội phạm khủng bố được quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan.
Nguồn tài liệu tham khảo: Tác giả nghiên cứu các tài tài liệu mang tính học
thuật và có độ tin cậy cao, bao gồm: BLHS, BLTTHS, các quyển Giáo trình,
Bình luận BLHS, một số khóa luận tốt nghiệp, Luận án Thạc sỹ có đề tài nghiên
cứu liên quan đến tội phạm khủng bố và tác giả cũng cố gắng sưu tầm và tìm
hiểu thêm những tài liệu do các chuyên gia trong lực lượng Công an nhân dân
biên soạn như TS. Tạ Văn Roan, GS. TS Nguyễn Ngọc Anh hay TS, Thượng tá
Bùi Trung Thành,… Ngoài ra, nội dung của khóa luận cũng được tham khảo từ
nhiều nguồn tài liệu khác như: Tạp chí Khoa học và pháp lý, Tạp chí Cơng an
nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Khoa học và Chiến lược, Tạp
chí Khoa học và Giáo dục An ninh, Tạp chí Kiểm sát,… và nhiều bài viết có liên
quan trên các trang Webside chính thống cũng được sử dụng và cập nhật như:
Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Báo Pháp luật Việt Nam điện tử hay Trang
Thông tin Điện tử của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm,… Đây chính là
những nguồn tài liệu hết sức quan trọng và quý báu đã giúp cho tác giả rất nhiều
trong việc tìm hiểu và nghiên cứu về các tội phạm khủng bố cùng nhiều vấn đề
có liên quan nhằm hồn thiện tốt Khóa luận tốt nghiệp này.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà
nước và pháp luật về tội phạm và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng
thêm một số phương pháp khác như: phương pháp lịch sử, tổng hợp, so sánh,
phân tích nhằm để làm rõ thêm vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm tổng hợp
kiến thức, thông tin từ nhiều nguồn tài liệu tham khảo khác nhau và đây đều là
những nguồn tài liệu có độ tin cậy cao như: BLHS các nước, giáo trình của các
trường đào tạo Luật, các bài báo khoa học pháp lý có liên quan,…
- Phương pháp lịch sử: Đã giúp cho tác giả tìm hiểu rõ hơn về bản chất,
cũng như quy luật hình thành và phát triển các quy định của BLHS về tội phạm
khủng bố qua các giai đoạn trong quá khứ và hiện tại, từ đó là cơ sở căn bản cho
việc định hướng hoàn thiện pháp luật trong tương lai.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm so sánh
các quy định về tội phạm khủng bố theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc
biệt là quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với BLHS của
một số nước trên thế giới cũng như quy định trong các Công ước quốc tế liên
quan đến tội phạm này, nhằm tiếp thu có chọn lọc những ưu điểm trong các quy
định này để giúp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam, đồng thời phương pháp
này cũng giúp tác giả so sánh quy định về tội phạm khủng bố qua các giai đoạn
lịch sử, cũng như so sánh số liệu liên quan đến tội phạm này qua các năm.
- Phương pháp phân tích: phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích
các định nghĩa về khủng bố được quy định trong pháp luật quốc tế cũng như
pháp luật Việt Nam, đặc biệt phương pháp này còn giúp tác giả phân tích cấu
thành tội phạm của các tội khủng bố được quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) nhằm giúp tác giả có được cái nhìn cụ thể nhất về các quy
định về tội phạm này trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
Nội dung của khóa luận tốt nghiệp được trình bày trên cơ sở nghiên cứu
một số văn bản pháp luật quốc tế, các văn bản pháp luật của nước ta và một số tài
liệu pháp lý khác.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng.
Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về tội
phạm khủng bố được quy định trong pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong BLHS
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tội phạm khủng bố trong khóa luận tốt
nghiệp dưới góc độ pháp lý hình sự được tác giả nghiên cứu dưới cả hai góc độ
lý luận và thực tiễn đã giúp cho người đọc có được một cái nhìn tồn diện nhất
về tội phạm này.
Những kết quả nghiên cứu của tác giả được dùng là nguồn tài liệu tham
khảo cho hoạt động học tập, nghiên cứu Luật học của sinh viên, giáo viên ở các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp; đặc biệt trong giai đoạn cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay, khóa luận cịn có thể là tài liệu tham khảo cho
các hoạt động lập pháp.
8. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, khóa luận được xây dựng thành 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về khủng bố.
Chương 2: Quy định về tội phạm khủng bố trong Luật Hình sự Việt
Nam - Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG BỐ
1.1. Khái niệm khủng bố.
1.1.1. Một số quan niệm trên thế giới về khủng bố.
Trong lịch sử xã hội, hoạt động khủng bố đã có từ lâu, nhưng thế kỷ XVIII
nhìn chung vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia. Thế kỷ XIX, hoạt động
khủng bố bắt đầu vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Từ những năm 1940 đến năm
1960, khủng bố bắt đầu diễn ra ở quy mô lớn, từ năm 1990 đến nay đã phá hoại
nghiêm trọng hịa bình, ổn định và sự phát triển trên thế giới. Mặc dù hoạt động
khủng bố đã diễn ra trong một thời gian dài, nhưng đến nay vẫn chưa có một
định nghĩa thống nhất trên phạm vi toàn cầu về “khủng bố” cũng như “chủ nghĩa
khủng bố”.
Cuối thế kỷ XVII, ở Châu Âu xuất hiện thuật ngữ “khủng bố” (terror) chỉ
hành vi đe dọa, làm cho người khác sợ hãi để đạt được ý đồ và người có hành vi
gây ra sự khiếp sợ, kinh hoàng cho người khác được gọi là kẻ khủng bố (terorist).
“Việc sử dụng thuật ngữ “khủng bố”, “kẻ khủng bố” này được ghi nhận lần đầu
tiên vào năm 1795, liên quan đến chính quyền Terreur (chính quyền cách mạng
tại Pháp trong giai đoạn cách mạng Pháp diễn ra từ tháng 9/1793 đến tháng
7/1794)” [80 - tr.19,20]. Để tấn cơng thù trong giặc ngồi, chính quyền Pháp do
Ủy ban an ninh công cộng lãnh đạo đã thiết lập một chế độ độc tài (rất nhiều
người đã bị Tòa án cách mạng kết án tử hình) và tiến hành các biện pháp kinh tế
hà khắc. “Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ “kẻ khủng bố” theo nghĩa là kẻ
chống chính quyền chỉ được sử dụng từ năm 1878 - 1881 bắt đầu từ nước Nga Sa
hoàng rồi lan ra Châu Âu và Mỹ. Khái niệm này được người ta dùng để chỉ
những kẻ chống chính quyền với triết lý và lý tưởng vơ chính phủ, phủ nhận nhà
nước, các đạo luật do nhà nước ban hành và tài sản của công dân” [36- tr.3,4].
Như vậy, thuật ngữ “khủng bố” ban đầu được nhân loại nói chung sử dụng
để chỉ hành vi đàn áp của chính quyền, của chế độ thực dân hay xâm lược. Sau
này, người ta sử dụng nó để chỉ cả các hành vi của các nhóm đối lập chống chính
quyền.
Trên thực tế, hầu hết các nhà nghiên cứu đều tin rằng không bao giờ người
ta đạt được một định nghĩa khách quan và tồn diện nhất để từ đó được quốc tế
chấp nhận về khủng bố. Vụ khủng bố ngày 11/9/2001 chỉ như khơi lại một vấn
đề tưởng chừng đã bị chìm đi trong cơn lốc tồn cầu hóa kinh tế. Khi vụ khủng
bố này xảy ra, người Mỹ và nhân loại đã bừng tỉnh khi nhận ra cùng với toàn cầu
hóa về kinh tế, bạo lực (trong đó có khủng bố) cũng được tồn cầu hóa, ngày
càng có những diễn biến phức tạp và khó lường.
Trên phạm vi tồn thế giới hiện có tới 13 điều ước phổ cập và 7 điều ước
khu vực trực tiếp liên quan đến khủng bố nhưng khơng có văn kiện nào đưa ra
được một định nghĩa thống nhất về khủng bố, đây vẫn là một vấn đề lý luận đã và
đang đặt ra nhiều yêu cầu cấp bách cần nghiên cứu giải quyết đối với tất cả quốc
gia và dân tộc do đó việc cộng đồng quốc tế chưa thể đi đến một ĐƯQT toàn
diện về chống khủng bố một mặt phản ánh sự khó khăn của việc định nghĩa
nhưng mặt khác quan trọng hơn nó phản ánh nhu cầu cần phải có một định nghĩa
thống nhất để cơng tác phịng, chống khủng bố có thể đạt hiệu quả cao hơn.
Có thể nói rằng khủng bố là một vấn đề xã hội đã xuất hiện từ rất lâu và
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn chưa có
một văn bản nào đưa ra một định nghĩa thống nhất về khủng bố. Vấn đề này xuất
phát từ những quan điểm khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới từ
khi có hoạt động khủng bố đến nay. Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100
khái niệm về hoạt động khủng bố. Vấn đề này đã gây bất đồng giữa các quốc gia
với nhau và cũng gây khơng ít khó khăn trong hợp tác, phịng chống khủng bố và
việc tổ chức triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với các tổ chức
khủng bố cũng như các hoạt động của chúng. Hiện có khơng ít quốc gia đã đưa ra
quan niệm về khủng bố và hoạt động khủng bố, tiêu biểu là:
- Theo quan niệm của Mỹ, với lập luận “khơng có khái niệm khủng bố nào
nhận được sự thừa nhận rộng rãi”, Bộ Ngoại giao Mỹ đã lấy khái niệm trong
Mục 22 Bộ luật Liên Bang đoạn 2656f(d) về khủng bố như sau: “là hành vi bạo
lực có chủ ý và mục đích chính trị nhằm vào các mục tiêu khơng tham chiến do
một nhóm vơ chính phủ - tiểu quốc gia hoặc các tổ chức bí mật tiến hành và ln
nhằm mục đích gây ảnh hưởng tới những người chứng kiến”, “khủng bố quốc tế
là khủng bố nhằm vào công dân hoặc lãnh thổ từ hai quốc gia trở lên”, nhóm
khủng bố được coi là “nhóm thực hiện hoặc có những nhóm nhỏ quan trọng thực
hiện hành động khủng bố”[36 - tr.6].
- Theo quan niệm của Anh, “Khủng bố là việc sử dụng hay đe dọa sử dụng:
(a) bạo lực nhằm vào con người hay gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản hay
gây nguy hiểm đối với tính mạng của người khác ngồi người thực hiện hành động
đó hay gây nguy hại hay an tồn của cơng chúng ; (b) sử dụng hoặc đe dọa sử
dụng nhằm gây ảnh hưởng với một chính quyền hay để hăm dọa công chúng hoặc
một bộ phận công chúng ; và (c) sử dụng hoặc đe dọa sử dụng nhằm mục đích
thúc đẩy mục tiêu tư tưởng hay tơn giáo hay chính trị” - Luật chống khủng bố,
năm 2000 [36 - tr.5].
- Khái niệm của LHQ: Xét về mặt pháp lý, LHQ là cơ quan có khả năng
đưa ra được một khái niệm khách quan về khủng bố hơn bất kỳ chủ thể nào khác.
Nhưng Tổng thư ký LHQ cũng đã phải thừa nhận việc đưa ra một khái niệm về
khủng bố là một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với tổ chức quốc tế này
nhưng đó là một khó khăn bắt buộc phải vượt qua. Trên thực tế, trong suốt hơn
30 năm qua, LHQ đã có nhiều nỗ lực để có được một khái niệm chung về khủng
bố, nhưng cũng chưa mang lại kết quả khả quan nào do sự bất đồng chính trị giữa
các quốc gia về việc phân biệt giữa khủng bố và các phong trào giải phóng dân
tộc. Gần đây nhất, trong báo cáo của Nhóm hoạch định chính sách của LHQ về
khủng bố, đã đưa ra một khái niệm khá chung về khủng bố: “khủng bố là thực
hiện hoặc có ý đồ thực hiện hành vi xâm phạm các nguyên tắc pháp luật, trật tự,
quyền con người và ngun tắc hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế vốn là
nền tảng tạo lập nên thế giới”[35 - tr.21]. Khái niệm này xuất phát từ góc độ coi
khủng bố là mối hiểm họa đe dọa tấn công vào các nguyên tắc nền tảng và sứ
mệnh chính của LHQ.Tuy nhiên, chính những người đưa ra khái niệm này cũng
công nhận là họ “không cố gắng đi đến một khái niệm toàn diện về khủng bố”
[36 - tr.6].
Qua một số quan niệm trên của cộng đồng quốc tế về tội phạm khủng bố ta
có thấy rõ một điều là mặc dù hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chung
nhận thức về tính chất nguy hiểm cũng như sự cần thiết hợp tác đấu tranh ngăn
ngừa và trừng trị các hành vi khủng bố quốc tế, nhưng một vấn đề tồn tại lớn
hiện nay là vẫn chưa ra được một khái niệm chung như thế nào là tội phạm
khủng bố. Điều này xuất phát từ chính sự khác biệt về chế độ chính trị, các quan
niệm pháp lý, đặc điểm lịch sử, vị trí và sự ảnh hưởng của mỗi quốc gia trên thế
giới và trong khu vực…và cịn xuất phát từ chính tính chất nhạy cảm của vấn đề
khủng bố liên quan đến các lợi ích quốc gia và dân tộc của mỗi nước khi đặt ra
vấn đề khủng bố và chống khủng bố. “Không ngoại trừ trong nhiều trường hợp,
“chống khủng bố” đã trở thành một chiêu bài chính trị, bị một số thế lực trên thế
giới lợi dụng, bóp méo xuyên tạc để đạt được các tham vọng chính trị cũng như
những quyền lợi kinh tế, và trong trường hợp đó, chống khủng bố sẽ trở thành cái
cớ để tiến hành chiến tranh xâm lược hoặc can thiệp trái phép vào công việc nội
bộ của các quốc gia khác hoặc của khu vực; điều đó cũng thể hiện rõ trong Cơng
ước ASEAN dẫn chiếu đến các ĐƯQT phổ cập để quy định về hành vi khủng
bố”[40 -tr.10].
Qua việc nghiên cứu quan điểm về tội phạm khủng bố của một số quốc gia
trên thế giới nói riêng cũng như của cộng đồng quốc tế nói chung, theo tác giả
đối với Việt Nam để có một cái nhìn tồn diện nhất về loại tội phạm này để từ đó
đưa ra được một khái niệm cụ thể nhất về định nghĩa như thế nào là “khủng bố”
cần phải dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, coi khủng bố là
một hiện tượng chính trị, xã hội phức tạp và đặt nó trong một điều kiện, hoàn
cảnh, thời điểm lịch sử hiện tại, phải dựa trên lợi ích quốc gia, dân tộc, trên cơ sở
xem xét đến lợi ích chung của tồn thể nhân loại. Đồng thời việc đưa ra định nghĩa
cần có sự tính tốn đến phạm vi điều chỉnh cho tất cả các hành vi khủng bố của tất
cả các đối tượng đã, đang và sẽ diễn ra ở Việt Nam và trên thế giới, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động phòng, chống khủng bố của Việt Nam
phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay. Theo đó, riêng đối với ý kiến của bản
thân, tác giả đồng tình nhất với định nghĩa “khủng bố” được quy định trong BLHS
của Liên bang Nga. Bởi lẽ với định nghĩa này, Tội khủng bố mặc dù được quy
định thành một tội danh độc lập nhưng vẫn có mối liên hệ với các tội danh khác có
liên quan. Theo đó, khủng bố là hành vi khơng những xâm phạm đến tự do, thân
thể, xâm phạm tự do dân chủ của con người mà ngồi ra nó cịn xâm phạm đến các
quan hệ về tài sản; ngồi ra “khủngbố” trong BLHS Liên bang Nga khơng địi hỏi
mục đích chống chính quyền nhân dân, mà với bất kỳ mục đích nào mà thỏa mãn
đầy đủ các cấu thành tội phạm được quy định trong điều luật thì đều cấu thành tội
phạm “khủng bố” - đây là những quy định khá phù hợp với quan điểm của cộng
đồng quốc tế nói chung hiện nay.
Qua việc nghiên cứu một số quan niệm trên thế giới về khủng bố, ta có thể
thấy rõ rằng các quan niệm trên là hoàn toàn không giống nhau, điều này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, song xét đến cùng thì một hành vi nếu muốn được
xem là “khủng bố” thì phải có những đặc điểm nhất định. Cụ thể như sau:
Một là, khủng bố là sự thống nhất biện chứng giữa tư tưởng bạo lực cực
đoan với hoạt động diễn ra trên thực tế [80- tr.34].
Chúng ta đều biết rằng khủng bố hay chủ nghĩa khủng bố nảy sinh từ tư
tưởng bạo lực cực đoan, thường là tư tưởng bạo lực cực đoan về chính trị, dân
tộc hay tôn giáo, vvv… Tư tưởng này chi phối các hành động diễn ra trên thực tế.
Nếu một người nào đó có tư tưởng bạo lực cực đoan nhưng khơng bộc lộ ra bên
ngồi bằng hoạt động bạo lực, chưa đe dọa sử dụng bạo lực hoặc chưa tiến hành
bất cứ một hoạt động phá hoại nào khác, chưa gây ra sự khiếp sợ hay hoảng loạn
trong xã hội thì cho dù tư tưởng đó cực đoan đến mức độ nào đi chăng nữa cũng
không thể kết luận và truy cứu trách nhiệm hình sự với người đó về tội khủng bố
(mặc dù có thể truy tố họ về các tội phạm thông thường khác). Nhưng nếu bộc lộ
tư tưởng bạo lực cực đoan ra bên ngoài, mang tư tưởng đó áp đặt hoặc áp dụng