BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ TÚC
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO ĐIỀU 46 BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ TÚC
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO ĐIỀU 46 BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự.
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.TS. Hồng Thị Minh Sơn
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Những kết quả và các số liệu trong khóa luận tốt nghiệp được thực hiện
do q trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo Điều 46 Bộ luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên
cứu những bản án có áp dụng tình tiết giảm nhẹ đã xảy ra trong thực tiễn để
đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong việc giải
quyết án hình sự.
Tơi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi. Tôi không sao chép bất
kỳ nguồn nào khác. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự
cam đoan này./.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 6 năm 2013
Học viên
Trần Thị Túc
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
QĐHP
: Quyết định hình phạt
BLHS
: Bộ luật hình sự
TANDTC
: Tịa án nhân dân tối cao
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
BTP
: Bộ tư pháp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
1.1
1.2
3.1
3.2
Tên bảng
Một số tình tiết định tội cùng tên gọi
với tình tiết giảm nhẹ TNHS
Một số tình tiết định khung cùng tên
gọi với tình tiết giảm nhẹ TNHS
Bảng tổng hợp phiếu khảo sát và phân
tích các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo
khoản 1 Điều 46 BLHS của 150 bản án
trên địa bàn cả nước
Bảng tổng hợp phiếu khảo sát và phân
tích các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo
Điều 46 BLHS của 150 bản án trên địa
bàn cả nước
Trang
17
18
58 - 59
73 - 75
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT
GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT
6
1.1. Khái niệm, đặc điểm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Điều 46 Bộ luật hình sự
6
1.2.Vai trị và ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong việc thực hiện chính sách hình sự
11
1.3. Phân biệt các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với các loại
tình tiết khác trong vụ án
14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
19
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG PHÁP LÝ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO ĐIỀU 46 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
21
2.1. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46
Bộ luật hình sự
21
2.2. Nguyên tắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
55
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT
GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ KHI QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
56
3.1. Thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
56
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46 Bộ luật hình sự
83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
89
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội và cũng không bỏ lọt hành vi của người phạm tội là mục tiêu, yêu cầu
quan trọng hàng đầu trong việc giải quyết các vụ án hình sự của Tịa án.
Trong q trình giải quyết vụ án hình sự nếu định tội là tiền đề, là cơ sở cho
việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của
hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt một cách chính xác có ý nghĩa rất
quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Việc quyết định một hình
phạt đúng khơng những đảm bảo sự công bằng, hợp lý, minh bạch trong thực
thi pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm mà cịn có
tác dụng răn đe, giáo dục, phịng ngừa tội phạm.
Vì vậy, để bảo đảm cho việc định tội chính xác, quyết định một hình
phạt đúng pháp luật, bên cạnh việc căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự;
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân
người phạm tội; thì các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là
một trong những căn cứ để quyết định hình phạt, là cơ sở đảm bảo cho việc
thực hiện ngun tắc cá thể hóa hình phạt trong áp dụng pháp luật. Nhưng
trong thực tế xét xử, sai lầm trong việc quyết định hình phạt chủ yếu là quyết
định hình phạt quá nặng, quá nhẹ hoặc cho người phạm tội hưởng án treo
không đúng. Nguyên nhân của sai lầm này là do đánh giá khơng đúng tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội đặc
biệt là việc xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
khơng chính xác. Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Điều 46 BLHS là một vấn đề đang cịn nhiều vướng mắc, thiếu sót cần được
tháo gỡ, đặc biệt là sự áp dụng thiếu nhất quán của các Tòa án địa phương.
Mặc dù quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp
luật hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng về mặt xã hội cũng như pháp lý
hình sự nhưng việc nghiên cứu vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức.
Cho đến nay, nước ta vẫn cịn ít và thiếu những cơng trình chuyên khảo
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong các giáo trình luật
hình sự cuả các trường đào tạo luật, phần viết về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cịn ít, hầu hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới
chỉ được nêu một cách khái quát, mang tính liệt kê. Các bài viết được đăng
trên các tạp chí, báo, sách chỉ dừng lại phân tích một số vấn đề ở góc độ thực
tiễn áp dụng mà chưa mang tính hệ thống. Việc nghiên cứu để hiểu rõ và áp
2
dụng khơng chính xác các tình tiết giảm nhẹ trong hoạt động xét xử của Tòa
án cấp sơ thẩm và phúc thẩm là một yêu cầu rất quan trọng và cần thiết. Vì
vậy, học viên chọn “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46
Bộ luật hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học, nhằm
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu ở một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật ở nước ta như
Trường Đại học Luật thành Hồ Chí Minh, Trường Đại học luật Hà Nội có rất
nhiều đề tài nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến một số vấn đề lý luận, nội dung
cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong Luật hình sự. Chẳng hạn như: Luận án tiến sỹ của Trần Thị
Quang Vinh(năm 2000), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự Việt Nam; sách của Uông Chu Lưu chủ biên (năm 2003), Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ Tư Pháp – Viện khoa học pháp
lý, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; sách của Đinh Văn Quế( 2004),
bình luận khoa học BLHS( Phần chung), nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh; Luận văn cử nhân của tác giả Hoàng Thị Tuệ Phương ( năm 1997), Chế
định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt
Nam trước Cách Mạng tháng 8; Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
hình sự Việt Nam đã phân tích khá sâu sắc, đầy đủ nội dung của các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS năm 1999 nhưng cũng
chưa đề cập một cách có hệ thống, đầy đủ về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn
áp dụng quy định của BLHS về các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc
cũng chỉ nêu khái quát về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà chưa
mơ tả cụ thể, hoặc lúc nghiên cứu theo quy định của BLHS cũ. Sách của Đinh
Văn Quế (1995), Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội cũng đã phân tích tương đối chi tiết, đầy
đủ nội dung của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng lại theo quy
định của BLHS năm 1985. Kế đến là có rất nhiều bài báo, bài trao đổi, bài
nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Tịa án nhân
dân, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí nhà nước và pháp luật, Tạp chí
luật học, Tạp chí Lập pháp, Tạp chí nghiên cứu pháp luật cũng chỉ dừng lại ở
mức độ trao đổi, tranh luận về một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng các tình tiết này mà chưa mang tính hệ thống, cụ thể. Chẳng hạn như các
bài viết của Bùi Kiến Quốc, Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong BLHS Việt Nam, Tạp chí Luật học số 6/2000; bài viết của
Nguyễn Như Cường), Về tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, khoản 1 Điều
3
46 BLHS, Tạp chí Tịa án nhân dân số 15/2004; bài viết của Hồ Sĩ Sơn,
Những hạn chế trong các quy định của BLHS năm 1999 về các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hướng khắc phục”,Tạp chí Tịa án
nhân dân số 16/2008; bài viết của Minh Lương, Tình tiết giảm nhẹ định tội
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân dân số 20/2007; bài viết
của Nguyễn Văn Hào, Một số ý kiến về hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 46
Bộ luật hình sự năm 1999; Tạp chí Tịa án nhân dân số 13/2004; bài viết của
Phạm Thị Thanh Nga, Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phản ánh
điều kiện, hồn cảnh thực hiện tội phạm, Tạp chí Tịa án số 6/2008; bài viết
của tác giả của tác giả Đỗ Văn Tạo, Bàn về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ
“người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả” quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 46 BLHS, Tạp chí TAND số
10/2011…
Các bài viết, các ý kiến tranh luận đó chỉ đề cập, giải quyết một vấn đề
nào đó hoặc là về lý luận, hoặc là về thực tiễn. Hiện nay, ở nước ta cịn rất
thiếu các cơng trình nghiên cứu tồn diện, hệ thống đầy đủ cả về cơ sở lý luận
cũng như thực tiễn những quy định của BLHS về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dựa trên cở sở của
BLHS, các văn bản pháp lý có liên quan, từ đó xây dựng một cách có hệ
thống các vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đồng
thời chúng tơi đã có một q trình khảo sát thực tế và trực tiếp vận dụng các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt tại các Tịa án
địa phương. Trong q trình nghiên cứu, tổng hợp giữa lý luận và thực tiễn,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các
vấn đề lý luận tại Điều 46 BLHS năm 1999.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu vấn đề lý luận và các quy định về tình tiết giảm nhẹ TNHS,
nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Điều 46 BLHS năm 1999 cũng
như thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình
phạt.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Để đạt được mục đích như trên, đề tài luận văn tập trung giải quyết
những vấn đề sau:
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
4
Hai là, trên cơ sở phân tích nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy
định tại Điều 46 BLHS năm 1999, đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng, phát
hiện những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định này trong hoạt động
giải quyết vụ án hình sự.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và nội dung các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thực tiễn áp dụng các tình tiết này khi
quyết định hình phạt của một số Tòa án địa phương trên địa bàn cả nước.
* Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề
về cơ sở lý luận, nội dung các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định
tại Điều 46 BLHS năm 1999, thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong 150 bản án ở các Tòa án địa phương trên địa bàn cả
nước và tình hình áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thể hiện chi tiết hơn thơng qua việc phân tích,
đánh giá thực tiễn áp dụng tại các bản án của các Tịa án nói chung.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là sự hiểu biết các kiến thức chung về Nhà nước và pháp
luật, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về hoàn thiện pháp luật.
Về phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp logic lịch sử tác giả đã chú trọng sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để chứng minh làm
rõ nội dung, thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và từ đó có những đề xuất hồn thiện.
6. Kết quả nghiên cứu
Luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ về mặt lý luận các tình tiết giảm
nhẹ, đặc điểm, vai trị và ý nghĩa của những tình tiết này trong việc giải quyết
vụ án hình sự.
Luận văn đã phân tích và làm rõ những quy định của BLHS về tình tiết
giảm nhẹ, thực trạng áp dụng và nguyên nhân của nó.
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho việc học
tập, giảng dạy và đặc biệt đối với các nhà lập pháp hình sự khi nghiên cứu,
sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hiện hành.
5
Luận văn cũng có giá trị tham khảo bổ ích đối với những cán bộ làm
công tác thực tiễn trong việc giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là đối với
những người áp dụng pháp luật.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Nội dung pháp lý các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo Điều 46 BLHS.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt và giải pháp nâng cao hiệu quả.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm các tình tiết giảm nhẹ Điều 46 Bộ luật
hình sự
1.1.1. Khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Điều 46 Bộ
luật hình sự
Bộ luật hình sự khơng đưa ra khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Trong khoa học pháp lý nước ta, quan niệm về vấn đề này
cũng chưa thống nhất.
Nếu hiểu các tình tiết giảm nhẹ theo Điều 46 Bộ luật hình sự là các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cách hiểu đó chưa phản ánh hết tính
chất, ý nghĩa của nhóm tình tiết này. Bởi lẽ, hiểu theo nghĩa bao trùm nhất
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bất kỳ tình tiết nào có tác dụng làm
giảm bớt mức độ trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự, theo cách hiểu
phổ biến nhất của luật hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, người
phạm tội phải chịu sự tác động của biện pháp cưỡng chế đặc biệt của Nhà
nước do Bộ luật hình sự quy định, có thể họ phải chịu hình phạt hoặc miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, cho hưởng án treo...tùy theo tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được phản ánh thơng qua các tình
tiết của vụ án do người phạm tội thực hiện mà Tòa án buộc họ phải chấp hành
một hình phạt nghiêm khắc hay được hưởng mức hình phạt khoan hồng. Việc
xử lý khoan hồng đối với người phạm tội bằng các biện pháp khác nhau đều
được xem là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khơng những được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự mà
cịn gồm các tình tiết định tội giảm nhẹ, định khung giảm nhẹ, các tình tiết
quy định tại Điều 46 và các Điều luật khác thuộc phần chung như Điều 17,
18, 19, 23, 25, 54, 57, 58, 59, 60, 61, 66, 69, 70, 76 Bộ luật hình sự. Gía trị
giảm nhẹ của các tình tiết này khơng chỉ là giảm nhẹ hình phạt trong giới hạn
một khung hình phạt mà cịn nhiều giá trị giảm nhẹ khác như miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Như vậy, có thể định nghĩa:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết của vụ án
hình sự, liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghĩa làm
giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng
7
cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng
và giá trị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của chúng chưa được ghi nhận trong
chế tài.1
Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46
BLHS chỉ là một dạng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó
có thể nêu lên được khái niệm: Các tình tiết giảm nhẹ Điều 46 là những tình
tiết làm giảm đi mức độ nguy hiểm của tội phạm, của người phạm tội và có ý
nghĩa làm giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội trong giới hạn một khung
hình phạt.
Theo tác giả Dương Tuyết Miên, đã viết:
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết đã được quy
định trong Bộ luật hình sự hoặc do Tịa án xác định phản ánh mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm
tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Những tình tiết này có ý nghĩa làm
giảm mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.2
Qua việc nghiên cứu các quan điểm trên cơ sở của sự tổng hợp, so sánh
và phân tích có kế thừa và có hệ thống, em cho rằng để thấy được bản chất
của các tình tiết giảm nhẹ thì khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nên hiểu theo nghĩa: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là
những tình tiết của vụ án hình sự, liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm
hình sự, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội
đáng được khoan hồng. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy
định trong Bộ luật hình sự, trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
hoặc do Tòa án cân nhắc, xem xét quyết định trong quá trình xét xử các vụ án
cụ thể.
Điều 46 BLHS quy định các tình tiết giảm nhẹ:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;
1
Trần Thị Quang Vinh, Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Dương Tuyết Miên( 1997), Thực tiễm áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo
Điều 38,39 Bộ luật hình sự,,Tạp chí Nhà nước và pháp luật, ( số 1)
2
8
e) Phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng phải do mình tự
gây ra;
g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
k) Phạm tội do lạc hậu;
l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
m) Người phạm tội là người già;
n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
o) Người phạm tội tự thú;
p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát
hiện, điều tra tội phạm;
r) Người phạm tội đã lập cơng chuộc tội;
s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến
đấu, học tập hoặc cơng tác.
Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ một số tình tiết giảm nhẹ mà
Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định; cụ thể những tình tiết sau đây:
- Phạm tội vì bị người khác chi phối về mặt vật chất, công tác hay các
mặt khác (điểm đ khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985).
- Phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém (điểm g khoản 1 Điều 38 Bộ
luật hình sự năm 1985).
Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định bổ sung một tình tiết giảm
nhẹ mới; cụ thể là những tình tiết sau đây:
- Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1);
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm r khoản 1);
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến
đấu, học tập hoặc công tác (điểm s khoản 1).
Tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Tồ án cịn
có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản
án". Theo các văn bản hướng dẫn trước đây của Toà án nhân dân tối cao và
của Toà án nhân dân tối cao với các cơ quan hữu quan khác cũng như thực
9
tiễn xét xử trong thời gian qua, thì các tình tiết sau đây được coi là các tình
tiết giảm nhẹ khác3:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có cơng với
nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh
hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ
Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà
giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý
khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha,
mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong cơng
tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người
bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như
đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể
của người phạm tội mà cịn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ,
nhưng phải ghi rõ trong bản án.
1.1.2. Đặc điểm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Điều 46
Bộ luật hình sự
Nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 BLHS cho
thấy sự đa dạng về nội dung và có mức độ ảnh hưởng giảm nhẹ hình phạt
khác nhau.
Có những tình tiết làm giảm bớt mức độ nguy hiểm của tội phạm và
người phạm tội, hậu quả tội phạm còn hạn chế do nguyên nhân khách quan
hoặc do sự tự nguyện của người phạm tội, tác hại của tội phạm gây ra không
lớn hoặc đã được khắc phục như: Người phạm tội ngăn chặn làm giảm bớt tác
hại của tội phạm, chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn…làm giảm nhẹ
một phần trách nhiệm hình sự.
3
Nghị quyết số 01/2000/NQ – HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999.
10
Có những tình tiết chỉ sự hạn chế về ý thức, ý chí của người phạm tội
như người có bệnh bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi, người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì
hành vi trái pháp luật của người khác, người chưa thành niên, phạm tội trong
trường hợp vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng, vượt q u cầu của tình
thế cấp thiết.
Có những tình tiết phản ánh khả năng cải tạo của người phạm tội thông
qua thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải, người phạm tội lập công chuộc
tội, người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm trong việc
phát hiện, điều tra tội phạm, người phạm tội là người có thành tích xuất sắc
trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác. Đây là những biểu hiện ghi
nhận quá trình phấn đấu tốt của bản thân người phạm tội về việc thực hiện tội
phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tích cực lao động.
Có những tình tiết cịn có tác dụng làm giảm nhẹ mức độ nguy hiểm
của người phạm tội. Nghĩa là những tình tiết này làm cho nhân thân người
phạm tội bớt nguy hiểm hơn. Sự thừa nhận này xuất phát từ nội dung nhân
đạo của pháp luật hình sự. Nó thể hiện ở mục đích của hình phạt. Đó là nhằm
cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân thủ pháp luật, các quy tắc của cuộc sống chung, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Hiệu quả cải hóa người phạm tội phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếp
thu cải tạo của họ. Người có nhân thân tốt sẽ dễ dàng tiếp thu sự cải tạo hơn
so với người có nhân thân xấu. Những tình tiết biểu hiện khả năng cải tạo tốt,
làm giảm mức độ nguy hiểm của người phạm tội sẽ có tác dụng giảm nhẹ
hình phạt cho người phạm tội. Đặc điểm này sẽ trở thành tiêu chí để xây dựng
những quy định về các tình tiết giảm nhẹ hình phạt trong Luật hình sự và giúp
Tịa án xác định những tình tiết khác có ý nghĩa giảm nhẹ hình phạt mà chưa
được Luật hình sự trực tiếp quy định.
Có những tình tiết phản ánh hồn cảnh đặc biệt của người phạm tội
đáng được khoan hồng ví dụ như: người phạm tội là người già, phụ nữ có
thai…Điều này xuất phát từ chính sách nhân đạo của Nhà nước trong xử lý tội
phạm.
Như vậy, từ các đặc điểm trên cho thấy bản chất pháp lý của các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chính là khả năng làm giảm trách nhiệm
hình sự do đã làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực
hiện, phản ánh khả năng cải tạo tốt của người phạm tội hoặc hoàn cảnh đặc
biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng.
11
1.2. Vai trị và ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong việc thực hiện chính sách hình sự
1.2.1. Vai trị của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 45 BLHS, thì khi quyết định hình phạt, Tịa án
khơng chỉ căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, mà cịn phải căn cứ vào các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự có vai trị là một trong những căn cứ để quyết định hình phạt. Pháp
luật khơng quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ảnh
hưởng đến mức nào đối với việc quyết định hình phạt. Do đó Tịa án có vai
trị quan trọng trong việc đánh giá, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ ảnh hưởng
đến mức nào cho việc quyết định hình phạt là thẩm quyền của Tịa án, thể
hiện tính hợp lý, tính mềm dẻo và tính xác định tương đối của pháp luật
nhưng phải trong phạm vi của pháp luật. Việc lựa chọn loại hình phạt nhẹ
hơn, khung hình phạt nhẹ hơn, mức hình phạt ít nghiêm khắc hơn phụ thuộc
rất nhiều vào việc người phạm tội có hay khơng có tình tiết giảm nhẹ, có một
hay có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong một vụ án
nếu có càng nhiều tình tiết giảm nhẹ thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
càng lớn và nhiều trường hợp chúng tạo ra sự thay đổi phá vỡ giới hạn tối
thiểu và giới hạn tối đa của khung chế tài theo hướng giảm nhẹ. Vai trị của
các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt được thể hiện rõ trong
hai trường hợp cơ bản sau:
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để giảm hình
phạt trong giới hạn một khung hình phạt đã được xác định. Theo lý luận về
các tình tiết trong luật hình sự Việt Nam, các tình tiết định tội phản ánh bản
chất nguy hiểm của tội phạm, đó là ranh giới để phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác. Các tình tiết định khung phản ánh thang bậc nguy hiểm khác nhau
của cùng một tội phạm. Cịn các tình tiết giảm nhẹ phản ánh mức độ giảm nhẹ
khác nhau của tội phạm, người phạm tội trong khung hình phạt. Căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để xác định
hành vi phạm tội đó thuộc cấu thành tội phạm nào và thuộc khung hình phạt
nào của tội phạm đó. Khung hình phạt quy định mức hình phạt tối thiểu và tối
đa mà người phạm tội có thể phải gánh chịu tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội đó. Điều đó khẳng định được rằng trong một số trường hợp, người
phạm tội có tình tiết giảm nhẹ mà khơng có tình tiết tăng nặng hoặc có cả tình
tiết tăng nặng và giảm nhẹ nhưng ảnh hưởng của tình tiết giảm nhẹ lớn hơn
thì đó cũng là căn cứ để Tịa án áp dụng hình phạt thấp hơn. Các tình tiết giảm
nhẹ theo Điều 46 nếu đứng độc lập, không cần kết hợp với nhau hoặc với các
12
yếu tố khác cũng đã có tác dụng làm giảm hình phạt trong khung giới hạn
hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân của
người phạm tội nào chỉ có ý nghĩa giảm nhẹ đối với cá nhân người phạm tội
đó, cịn các tình tiết giảm nhẹ khác thuộc về người nào thì chỉ có người đó
được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: A, B cùng cố ý làm hư hỏng tài
sản của C, B đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về tài sản cho C thì chỉ có B
được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với tình tiết bồi thường thiệt hại theo
điểm b Khoản 1 Điều 46.
- Gía trị giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khơng
thuần túy chỉ liên quan đến việc giảm hình phạt trong phạm vi khung hình
phạt, mà cịn là căn cứ để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Quyết
định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy
định nghĩa là: Quyết định một mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu của hình
phạt ở chế tài của khung hình phạt tương ứng, nhưng phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật hoặc một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung trong trường hợp luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình
phạt đó là khung nhẹ nhất của điều luật. Dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt mà điều luật đã quy định được hiểu là dưới mức thấp nhất mà chế tài của
khung hình phạt của điều luật đã quy định đối với tội phạm đã thực hiện, chứ
không phải dưới mức thấp nhất của loại hình phạt đó. Quyết định chuyển sang
một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là, quyết định thay thế loại hình
phạt được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đối với tội đang
xét xử bằng một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật hoặc khoản của điều luật đó. Điều 47 BLHS quy định: Khi
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung thì phải có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46. Khi có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu là có
từ hai tình tiết giảm nhẹ nói trên trở lên và có thể có các trường hợp sau: Thứ
nhất: hai tình tiết trở lên được quy định tại khoản 1 Điều 46. Thứ hai: Có ba
tình tiết trở lên, trong đó có hai tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 46 và
các tình tiết khác do Tồ án cân nhắc theo quy định ở khoản 2 Điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999. Song khơng phải cứ phạm tội trong trường hợp có
nhiều tình tiết giảm nhẹ là được áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật. Để quyết định hình phạt dưới mức thấp của khung, phải đảm bảo các
điều kiện:
- Về nội dung phản ánh: Các tình tiết của vụ án phải thể hiện rằng hành
vi phạm tội có tính nguy hiểm ở mức thấp nhất trong cấu thành tơị phạm đang
được áp dụng. Tình tiết giảm nhẹ xuất hiện càng làm cho tính nguy hiểm của
tội phạm giảm đi so với các trường hợp phạm tội thông thường.
13
- Về số lượng tình tiết giảm nhẹ: Phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
được quy định tại khoản 1 Điều 46, những tình tiết này chưa được sử dụng để
định tội hay định khung hình phạt.
1.2.2. Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
việc thực hiện chính sách hình sự
- Về mặt chính trị: Thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta trong xử lý hình sự: Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng.
Trong việc thực hiện chính sách hình sự thì các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng, nó được thể hiện thành một trong
những nguyên tắc xử lý cơ bản của Bộ luật hình sự. Một trong những nội
dung quan trọng của chính sách hình sự đã được ghi nhận tại Điều 3 Bộ luật
hình sự thể hiện những nội dung chính cơ bản đó là: Chính sách hình sự của
Nhà nước là chính sách xử lý tội phạm trên cơ sở nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng.
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu
manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội,
người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chun
nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng với người tự thú, thành
khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.4
Quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là cơ sở pháp lý
cần thiết cho việc vận dụng biện pháp khoan hồng của nhà nước trong xử lý
tội phạm. Không phải mọi hành vi phạm tội đều phải áp dụng đến hình phạt –
một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, không phải mọi
trường hợp bị kết án đều phải chấp hành hết thời hạn hình phạt tịa
tun…Việc có áp dụng hình phạt hay một biện pháp xử lý khoan hồng hay
không đều được quyết định trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự. Nó thể
hiện chính sách phân hóa trong xử lý tội phạm và giáo dục người phạm tội,
hạn chế vận dụng tùy tiện, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với ý nghĩa là một căn cứ để quyết định hình phạt, các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự được sử dụng để cá thể hố trách nhiệm hình sự. Các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự giúp Tồ án cá thể hố đến mức cao
nhất trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. Bởi lẽ các
nhà làm luật chỉ dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm mà dự
liệu một cách khái quát mức hình phạt theo khung cho mỗi loại tội phạm. Vì
vậy, để có một mức hình phạt tương xứng với tội phạm đã thực hiện. Toà án
4
Đoạn 3 Điểm 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm (1999)
14
phải căn cứ vào nhiều loại tình tiết khác nhau, trong đó có tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo Điều 46 BLHS.
Về giáo dục, cải tạo người phạm tội: Việc áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt có vai trị tác động tích cực
tới người phạm tội trong việc giáo dục người phạm tội, tạo điều kiện cho
người phạm tội được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, khuyến khích
người phạm tội lập cơng chuộc tội, nhằm hạn chế tác hại của tội phạm, đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tạo điều kiện cho việc phát hiện, điều
tra xử lý tội phạm. Ở từng mức độ khoan hồng khác nhau, nhà làm luật quy
định và khai thác tối đa ý nghĩa giảm nhẹ của các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tịa án được chính xác,
khách quan, cơng bằng, hợp lý. Điều đó làm cho người phạm tội nhận thức
được tội lỗi của mình, tin tưởng vào sự cơng bằng của pháp luật mà có động
cơ cải tạo tốt.
Tóm lại, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự là một chế định có ý nghĩa lớn cả về mặt xã hội cũng như pháp lý tạo
cơ sở pháp lý để thực hiện phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự, áp
dụng các biện pháp xử lý khoan hồng về hình sự đảm bảo cho Tòa án ra một
phán quyết khách quan, cơng bằng, hợp lý. Vì những ý nghĩa quan trọng đó,
nên thực tiễn ln đặt ra u cầu khách quan phải nâng cao hiệu quả vận dụng
chế định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1.3. Phân biệt các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với các
loại tình tiết khác trong vụ án
1.3.1. Phân biệt tình tiết giảm nhẹ với tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự và mối liên hệ giữa chúng
Tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệtm hình sự là những tình
tiết làm cho tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng hoặc
giảm so với các trường hợp thơng thường. Đó có thể là những tình tiết phản
ánh những thiệt hại do tội phạm gây ra, những tình tiết phản ánh khả năng
hồn lương của người phạm tội hoặc những tình tiết thể hiện chính sách hình
sự của Nhà nước. Việc luật hình sự quy định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự là một căn cứ quyết định hình phạt bên cạnh các căn cứ
khác như căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi áp dụng pháp luật phải thận trọng,
có sự xem xét, đánh giá một cách độc lập ảnh hưởng của chúng trước khi đặt
vào mối liên hệ chung với tất cả các tình tiết của vụ án tránh việc áp dụng
nhiều lần một tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bỏ sót, chưa đánh giá đầy đủ
sự ảnh hưởng đó. Điểm giống nhau của các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
15
trách nhiệm hình sự thể hiện ở chỗ chúng đều được nhà làm luật sử dụng như
phương tiện cá thể hóa trách nhiệm hình sự và đều là những tình tiết mang
tính chất riêng biệt của trường hợp phạm tội và đều có ảnh hưởng đến mức độ
trách nhiệm hình sự. Sự khác biệt ở hai nhóm tình tiết này thể hiện ở một số
khía cạnh sau:
- Các yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng
ít nghiêm trọng hơn thì gọi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cịn
những yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng
nghiêm trọng hơn thì gọi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy,
xét theo mức độ ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự thì nếu các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự có giá trị làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự thì
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự làm gia tăng mức độ trách nhiệm
hình sự. Ví dụ tình tiết: “Người phạm tội đã ngăn chặn, giảm bớt tác hại của
tội phạm” làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì tình tiết “Cố tình thực hiện
tội phạm đến cùng” có chiều ảnh hưởng ngược đến trách nhiệm hình sự là làm
tăng trách nhiệm hình sự.
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng theo hướng
mở rộng thì quy tắc vận dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại
theo hướng chỉ định chặt chẽ của luật. Luật không cho phép phá vỡ giới hạn
tối đa của chế tài khi tập trung nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong cùng một vụ án hình sự. Nhưng ngược lại, luật khơng những cho phép
quyết định hình phạt trong giới hạn một chế tài mà còn cho phép phá vỡ giới
hạn tối thiểu của chế tài để quyết định một hình phạt nhẹ hơn. Rõ ràng là khi
chưa được bổ sung vào Bộ luật hình sự, thì Tịa án khơng được tùy tiện thêm
vào những tình tiết mà Bộ luật hình sự khơng quy định để tăng nặng trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên, đối với tình tiết giảm nhẹ
thì Tịa án có thể coi những tình tiết khác ngồi những tình tiết đã được quy
định trong Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng
phải nói rõ lý do và tình tiết đó chỉ có ý nghĩa đối với trường hợp phạm tội cụ
thể mà Tịa án đang xem xét và đó cũng chỉ là trường hợp cá biệt.
- Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự mang tính chất
riêng biệt, đều được sử dụng như phương tiện cá thể hóa trách nhiệm hình sự.
Có thể hiểu, việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự theo nhiều cấp bậc: Đó là sự
phân hóa tội phạm theo đối tượng nghiêm trị và khoan hồng (Điều 3 BLHS),
phân hóa tội phạm theo mức độ nghiêm trọng và ít nghêm trọng (Điều 8
BLHS). Đó là việc quy định cấu thành tội phạm với khung hình phạt tương
ứng trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của mỗi loại hành vi
phạm tội. Đồng thời, khi lượng hình, Tịa án cá thể hóa hình phạt trên cơ sở
cân nhắc những tình tiết riêng biệt của hành vi đã được thực hiện và nhân thân
16
người phạm, trong đó có các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Như vậy, việc quy định và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự là một trong những điều kiện để thực hiện đến mức tối đa các
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự.
1.3.2. Phân biệt tình tiết giảm nhẹ với tình tiết định tội, định khung
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết định khung, tình
tiết định tội đều giống nhau ở chỗ chúng đều ảnh hưởng đến trách nhiệm hình
sự. Tuy nhiên ảnh hưởng của mỗi loại tình tiết đến trách nhiệm hình sự hồn
tồn khác nhau.
Theo lý luận về các loại tình tiết trong luật hình sự Việt Nam, các tình
tiết định tội phản ánh bản chất nguy hiểm của tội phạm đó, là ranh giới để
phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Các tình tiết là dấu hiệu định tội đó
những tình tiết khơng có nó thì hành vi khơng đủ các yếu tố để cấu thành tội
phạm; hoặc nếu có nó thì cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là
tình tiết tăng nặng) hay tội ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ).
- Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt là những tình tiết mà nhà
làm luật đã dự tính trước, nếu người phạm tội vi phạm quy định tình tiết đó ở
một Điều luật cụ thể của Bộ luật hình sự, thì khi xét xử Tịa án phải áp dụng ở
khung hình phạt mà Điều luật quy định có tình tiết đó với người phạm tội.
Các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu
thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu của các cấu thành tội phạm khác nhau,
phản ánh thang bậc nguy hiểm khác nhau của cùng một tội phạm.
Những tình tiết định tội, định khung được quy định ở cấu thành tội
phạm. Cịn các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ phản ánh mức độ nguy hiểm
khác nhau của tội phạm, người phạm tội trong thang bậc nguy hiểm đã được
định khung. Nó không được quy định trong cấu thành tội phạm mà lại được
quy định tại một điều luật riêng (Điều 48, Điều 46) áp dụng cho mọi tội phạm,
là căn cứ để quyết định hình phạt sau khi định tội và định khung hình phạt.
Nếu các tình tiết định tội, định khung là cơ sở để xác định tội danh, khung
hình phạt và hình phạt được quyết định phải nằm trong giới hạn của chế tài,
thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khơng có tác dụng làm thay đổi
tội danh, nhưng có thể đưa đến khả năng quyết định một hình phạt vượt ngồi
khn khổ của chế tài theo hướng giảm nhẹ như quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ
hơn. Tuy nhiên, lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Điều
đó có nghĩa là giới hạn của hình phạt vượt ngồi phạm vi của chế tài phải
được luật quy định rất chặt chẽ và hợp lý.
17
Theo sự nghiên cứu và liệt kê có thể thấy trong Bộ luật hình sự quy
định các tình tiết định tội, định khung, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
có thể cùng một tên gọi được liệt kê như sau:
Bảng 1.1: Một số tình tiết định tội cùng tên gọi với tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự như sau:
TT
TÌNH TIẾT ĐỊNH TỘI
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
1
Tội giết trẻ sơ sinh do ảnh hưởng Phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó
nặng nề của tư tưởng lạc hậu khăn mà khơng phải do mình tự gây
hoặc trong hồn cảnh khách quan ra (Điểm e Khoản 1Điều 46)
đặc biệt ( Điều 94BLHS)
2
Tội giết người trong trạng thái Phạm tội trong trường hợp bị kích
tinh thần bị kích động mạnh động về tinh thần do hành vi trái
(Điều 95 BLHS)
pháp luật của người bị hại hoặc
người khác gây ra (Điểm đ Khoản 1
Điều 46)
3
Tội giết người do vượt quá giới Phạm tội trong trường hợp vượt q
hạn phịng vệ chính đáng (Điều giới hạn phịng vệ chính đáng(Điểm
96 BLHS)
c Khoản 1 Điều 46)
4
Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều
105 BLHS)
5
Phạm tội trong trường hợp bị kích
động về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của người bị hại hoặc
người khác gây ra (Điểm đ Khoản 1
Điều 46)
Tội cố ý gây thương tích hoặc Phạm tội trong trường hợp vượt quá
gây tổn hại cho sức khỏe người giới hạn phịng vệ chính đáng (Điểm
khác do vượt q giới hạn phịng c Khoản 1 Điều 46)
vệ chính đáng (Điều 106 BLHS)
18
Bảng 1.2: Một số tình tiết định khung cùng tên gọi với các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
TT
TÌNH TIẾT ĐỊNH KHUNG
TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
1
Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm Phạm tội trong trường hợp ít
trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến nghiêm trọng
mười lăm năm (Khoản 2 Điều 80
BLHS)
2
Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm Phạm tội trong trường hợp ít
trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến nghiêm trọng
mười lăm năm (Khoản 2 Điều 85
BLHS)
3
Phạm tội trong trường hợp it nghiêm Phạm tội trong trường hợp ít
trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến nghiêm trọng
bảy năm (Khoản 2 Điều 86 BLHS)
4
Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm Phạm tội trong trường hợp ít
trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến nghiêm trọng
mười lăm năm (Khoản 2 Điều 80
BLHS)
19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 không
đưa ra một khái niệm riêng về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua
nghiên cứu các quan điểm trên cơ sở có sự tổng hợp, so sánh và phân tích có
tính kế thừa và có hệ thống có thể rút ra khái niệm: “Các tình tiết giảm nhẹ
TNHS được hiểu là những tình tiết của vụ án hình sự, liên quan đến việc giải
quyết trách nhiệm hình sự, có ý nghica làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc
biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng. Tình tiết giảm nhẹ TNHS
được quy định trong Bộ luật hình sự, trong các văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật hoặc do Tòa án cân nhắc, xem xét quyết định trong quá trình xét xử
các vụ án cụ thể.”
Các tình tiết giản nhẹ TNHS tuy khơng làm thay đổi tính chất của tội
phạm nhưng nó là những tình tiết làm giảm mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội trong một cấu thành tội phạm cụ thể. Nó làm thay đổi mức độ phải
chịu TNHS của người phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 46 BLHS cho
thấy sự đa dạng về nội dung và mức độ ảnh hưởng giảm nhẹ hình phạt khác
nhau. Có những tình tiết làm giảm bớt mức độ nguy hiểm của tội phạm và
người phạm tội. Có những tình tiết phản ánh khả năng cải tạo của người phạm
tội thông qua thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Có những tình tiết cịn
có tác dụng làm giảm nhẹ mức độ nguy hiểm của người phạm tội, làm cho
nhân thân người phạm tội bớt nguy hiểm hơn. Có những tình tiết phản ánh
hồn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng.
2. Trong việc thực hiện chính sách hình sự thì các tình tiết giảm nhẹ
TNHS có vai trị rất quan trọng, nó thể hiện thành một trong những nguyên
tắc xử lý cơ bản của BLHS. Luật khơng quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ
TNHS có ảnh hưởng đến mức nào đối với việc quyết định hình phạt. Ý nghĩa
của từng tình tiết giảm nhẹ này tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể, vào từng
người phạm tội cụ thể. Vai trị của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong việc quyết định hình phạt được thể hiện thơng qua hai khía cạnh đặc
trưng là: Căn cứ để giảm hình phạt trong giới hạn của khung hình phạt và căn
cứ để quyết định hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt.
3. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định
tội, tình tiết định khung đều được sử dụng như phương tiện cá thể hóa trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên ảnh hưởng của mỗi loại tình tiết đến trách nhiệm
hình sự là hồn tồn khác nhau. Có một số tình tiết giảm nhẹ TNHS cùng tên