BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HỒI PHƯƠNG
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN CẢNH HỢP
Học viên: NGUYỄN THỊ HỒI PHƯƠNG
Lớp: Cao học Luật, khóa 1 – Tiền Giang
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi tên: Nguyễn Thị Hồi Phương - học viên lớp Cao học Luật khóa 1 Tiền
Giang, chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính - Mã số: 60380102.
Tơi được trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh phân công thực hiện luận
văn thạc sỹ Luật học với đề tài: “Các biện pháp bảo đảm thi hành Bản án, Quyết
định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính”, dưới sự hướng dẫn khoa
học của Pgs.TS. Nguyễn Cảnh Hợp.
Nay tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi cùng thầy
hướng dẫn. Tôi xin chịu trách nhiệm với các khiếu nại về sau.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoài Phương
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.............. 4
1.1. Biện pháp pháp lý bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tịa án
trong giải quyết vụ án hành chính ...................................................................... 4
1.1.1. Biện pháp ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tịa án .... 4
1.1.2. Nhóm biện pháp xử lý trách nhiệm trong thi hành án hành chính ............ 6
1.1.3. Biện pháp kiểm tra, đơn đốc và xử lý trách nhiệm đối với người phải thi
hành án ............................................................................................................. 12
1.1.4. Biện pháp theo dõi việc thi hành án hành chính của cơ quan thi hành án
dân sự ............................................................................................................... 14
1.1.5. Biện pháp kiểm sát thi hành án hành chính ............................................ 17
1.2. Các biện pháp bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội ............... 18
1.2.1. Biện pháp bảo đảm về chính trị .............................................................. 18
1.2.2. Biện pháp bảo đảm về kinh tế ................................................................. 18
1.2.3. Biện pháp bảo đảm về văn hóa, xã hội ................................................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 21
NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA
TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................ 21
2.1. Thực trạng thực hiện những biện pháp bảo đảm thi hành bản án, quyết
định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính ........................................ 21
2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng những biện pháp bảo đảm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính ................................................................................................................. 21
2.1.2. Những bất cập trong các quy định về những biện pháp bảo đảm thi hành
bản án, quyết định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính ................... 24
2.2. Giải pháp hoàn thiện những biện pháp bảo đảm thi hành bản án, quyết
định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính ........................................ 32
2.2.1. Một số giải pháp về pháp lý .................................................................... 32
2.2.2. Một số giải pháp về thực tiễn .................................................................. 36
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, số vụ khiếu kiện của công dân nước ta có xu
hướng tăng và tính chất ngày càng phức tạp. Trong đó phức tạp nhất là những vụ
người dân khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước. Việc khiếu kiện đã làm ảnh hưởng rất lớn đến an ninh, chính trị, trật tự, an
toàn xã hội ở địa phương. Cho dù những vụ việc đã được giải quyết bằng Bản án,
Quyết định của Tòa án nhưng vẫn chưa thể nào giải quyết được triệt để được nguồn
gốc mâu thuẫn giữa người khiếu kiện và người bị kiện nếu không được tiếp nhận và
giải quyết bởi cơ quan thi hành án. Nếu mâu thuẫn này khơng được giải quyết triệt
để thì đại đa số người dân sẽ nảy sinh tâm lý tiêu cực, mât niềm tin vào pháp luật,
vào Đảng và cơ quan nhà nước.
Thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho Bản án, Quyết định của
Tòa án được chấp hành. Với ý nghĩa đó, hoạt động thi hành án có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc Hiến định: “Bản án, Quyết định của Tòa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Tuy nhiên, thi hành án là một hoạt động khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích
liên quan, đặc biệt việc thi hành Bản án, Quyết định hành chính của Tịa án lại càng
khó khăn hơn, bởi vì ngồi những đặc trưng của thi hành án nói chung, THAHC
cịn có những đặc trưng riêng so với các hoạt động thi hành án khác. Nếu như thi
hành án dân sự, thi hành án hình sự thì pháp luật quy định một chủ thể thứ ba (cơ
quan thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án hình sự) được Nhà nước giao trách
nhiệm tổ chức thi hành Bản án, Quyết định của Tịa án đã có hiệu lực thi hành, thì
THAHC được thực hiện theo cơ chế “tự thi hành” của người phải thi hành án.
Người phải thi hành án trong vụ án hành chính thường là các cơ quan nhà nước
hoặc người có chức danh, nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước…
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong thi hành
án nói chung và THAHC nói riêng. Vào ngày 25/11/2015, Quốc Hội đã chính thức
thơng qua Luật Tố tụng hành chính 2015 (TTHC) có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016.
Luật TTHC 2015 ra đời nhằm thay thế Luật TTHC 2010. Luật TTHC 2015 đã dành
2
trọn chương XIX để quy định về trình tự, thủ tục thi hành án Bản án, Quyết định
của Tòa án về vụ án hành chính. Luật TTHC 2015 quy định Chính phủ là cơ quan
thống nhất quản lý nhà nước về cơng tác Thi hành án hành chính.
Tuy pháp luật đã có một số quy định mới về THAHC nhưng cơng tác THAHC
vẫn gặp một số khó khăn, cụ thể: nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh nhất là trong
lĩnh vực quản lý cơng tác đất đai cịn chồng chéo, chưa phù hợp với thực tế khách
quan; quy định pháp luật về thi hành án hành chính cịn rải rác, tản mạn ở nhiều văn
bản khác nhau (Luật TTHC, Luật Thi hành án dân sự), chưa quy định đầy đủ cách
thức thực hiện; một số cách thức thi hành mang tính hình thức, định tính…Bên cạnh
đó, do tính chất phức tạp của công tác THAHC nên một số Bản án, Quyết định của
Tòa án Nhân dân về vụ án hành chính mặc dù có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được
thi hành... Mặt khác, đội ngũ Chấp hành viên, công chức làm cơng tác thi hành án cịn
thiếu về số lượng, yếu về năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Trong khi đó, hiện nay, cơ
quan Thi hành án dân sự vẫn đang trong tình trạng q tải cơng việc, nay được bổ
sung thêm nhiệm vụ THAHC nhưng cơ chế lại thiếu rõ ràng. Một số ban, ngành, địa
phương chưa thật sự quan tâm phối hợp chỉ đạo thực hiện công tác THAHC. Nhận
thức của cơ quan Nhà nước và người dân về thẩm quyền THAHC chưa đúng dẫn đến
tình trạng đùn đẩy trách nhiệm thi hành kém hiệu quả nên khiếu kiện, khiếu nại kéo
dài. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng có liên
quan chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác này, chưa
thấy được nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của mình trong việc phối hợp,
hỗ trợ hoạt động của các cơ quan thi hành án, vì vậy có nơi thì can thiệp q sâu, nơi
thì bng lỏng đối với cơng tác thi hành án…
Từ những khó khăn và bất cập nêu trên, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp
bảo đảm thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính”
làm luận văn thạc sĩ .
Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Tố tụng hành chính (TTHC) có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016. Luật
TTHC 2015 ra đời nhằm thay thế Luật TTHC 2010. Luật TTHC 2015 đã dành trọn
chương XIX để quy định về trình tự, thủ tục thi hành án Bản án, Quyết định của
Tịa án về vụ án hành chính nên nội dung này chưa có đề tài nào nghiên cứu. Do đó,
việc chọn đề tài trên làm luận văn thạc sĩ chính là sản phẩm của bản thân tác giả.
3
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu luận văn nhằm tìm ra nguyên nhân, đưa ra giải pháp, kiến
nghị góp phần đảm bảo cơng tác giải quyết vụ án hành chính; giải quyết được triệt
để được nguồn gốc mâu thuẫn giữa người khiếu kiện và người bị kiện; góp phần
bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự, an tồn xã hội ở địa phương; thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật; khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã
hội và công dân bị xâm phạm.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp bảo đảm thi hành Bản án, Quyết
định của Tịa án trong giải quyết vụ án hành chính gồm các biện pháp pháp lý; biện
pháp kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội; thực trạng thực hiện và giải pháp hoàn thiện
các biện pháp bảo đảm thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp
phân tích, tổng hợp gắn với khảo sát thực tiễn các quy định của pháp luật về giải
quyết vụ án hành chính tại địa phương và một số đơn vị khác.
Bố cục của luận văn: được chia làm hai chương
Chương 1. Biện pháp pháp lý bảo đảm thi hành Bản án, Quyết định của Tịa
án trong giải quyết vụ án hành chính.
Chương 2. Thực trạng thực hiện và giải pháp hoàn thiện những biện pháp bảo
đảm thi hành Bản án, Quyết định của Tịa án trong giải quyết vụ án hành chính.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Biện pháp pháp lý bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án
trong giải quyết vụ án hành chính
Hiện nay Luật TTHC 2015 và các văn bản hướng dẫn có liên quan khơng có
điều khoản nào quy định trực tiếp về các biện pháp pháp lý bảo đảm thi hành bản
án, quyết định của Tòa án trong giải quyết VAHC mà những biện pháp này được
quy định một cách gián tiếp hoặc lồng ghép trong các điều luật thuộc các văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau như: Luật TTHC 2015, Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012, Luật cán bộ, công chức năm 2008, Bộ luật hình sự, Nghị định
71/2016/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 01/7/2016 quy định về thời hạn,
trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với những người khơng thi hành
bản án, quyết định của Tịa án, Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy
định về xử lý kỷ luật đối với công chức…Căn cứ vào các quy định trên, những biện
pháp pháp lý bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong giải quyết
VAHC bao gồm: biện pháp ra quyết định buộc THAHC của Tòa án; biện pháp kiểm
tra, đôn đốc đối với người phải thi hành án; nhóm biện pháp xử lý trách nhiệm trong
THAHC; biện pháp theo dõi việc THAHC của cơ quan THADS.
1.1.1. Biện pháp ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Luật TTHC 2015 dành riêng Chương XIX từ Điều 309 đến Điều 315 để quy
định về việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đặc
biệt ngày 01/7/2016, Chính phủ đã ban hành ra Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy
định về thời hạn, trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với những
người không thi hành bản án, quyết định của Tịa án. Theo đó, những nội dung cơ
bản về thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong giải quyết VAHC được quy
định như: những bản án, quyết định của Tòa án về VAHC được thi hành; giải thích
bản án, quyết định của Tòa án; thi hành bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu,
quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; quản lý nhà nước về
THAHC, kiểm sát THAHC và xử lý vi phạm trong THAHC. Đây chính là những cơ
sở pháp lý quan trọng giúp các chủ thể có liên quan đến cơng tác THAHC căn cứ
vào đó để thực thi hoặc yêu cầu thực hiện phán quyết của Tòa án.
5
Trong những quy định của pháp luật TTHC hiện nay về thủ tục THAHC thì
việc Tịa án ra quyết định buộc thi hành án là một trong những yếu tố quan trọng bảo
đảm bản án, quyết định của Tòa án được thực thi một cách có hiệu quả. Điều 312
Luật TTHC 2015 quy định về yêu cầu, quyết định buộc thi hành bản án, quyết định
của Tịa án. Theo đó, việc yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc thi hành án chỉ áp dụng
trong trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án đã không thi hành bản án, quyết định
của Tòa án khi hết thời hạn thi hành tự nguyện theo quy định của pháp luật TTHC.
Người có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án là người được thi hành án
được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án. Thời hạn để yêu cầu Tòa án ra
quyết định thi hành án là 1 năm tính từ ngày hết thời thi hành nhưng người có nghĩa
vụ thi hành đã khơng thi hành án. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi cho người được thi
hành án, pháp luật TTHC còn quy định trường hợp người yêu cầu thi hành án không
trong thời gian do pháp luật quy định nhưng chứng minh được do trở ngại khách quan
hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì
thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng khơng tính vào thời hạn
u cầu thi hành án. Thẩm quyền ra quyết định buộc thi hành án thuộc về Tòa án đã
xét xử sơ thẩm. Với việc quy định quyết định buộc thi hành án phải được gởi cho thủ
trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án và Thủ trưởng cơ quan
cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, đơn đốc và xử
lý trách nhiệm của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
cho bản án, quyết định của Tòa án được thực thi một cách nghiêm chỉnh.
Như vậy, với quy định của Luật TTHC 2015 về quyền yêu cầu Tòa án ra
quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án giúp cho người được thi
hành án có thể bảo vệ được quyền lợi của mình trong trường họp người phải thi
hành án khơng thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc Tòa án ra quyết định
buộc thi hành án là một trong những phương thức bảo đảm cho bản án, quyết định
của Tòa án về VAHC được thực thi. Theo quy định trên có thể thấy chỉ có người
được thi hành án mới có quyền yều Tịa án ra quyết định buộc thi hành án và đối
tượng chịu sự tác động của quyết định này chính là người phải thi hành án. Chúng
tôi cho rằng quy định này hợp lý bởi lẽ người được thi hành án chính là người đã
được Tịa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện, quyền lợi của họ sẽ được khôi phục
thông qua việc thi hành phán quyết trong bản án, quyết định của Tịa án, vì vậy họ
là người được quyền đưa ra yêu cầu thi hành án nếu như bản án, quyết định của Tòa
án không được thi hành. Người phải thi hành án là đối tượng chịu sự tác động của
6
quyết định này bởi họ chính là người đã gây ra thiệt hại cho người được thi hành án
nên phải có trách nhiệm khắc phục những hậu quả do mình gây ra. Pháp luật TTHC
quy định thẩm quyền ra quyết định buộc thi hành án thuộc về Tòa án đã xét xử sơ
thẩm là điều hợp lý bởi lẽ đây là cơ quan có thẩm quyền thụ lý và giải quyết VAHC
theo thủ tục sơ thẩm nên hơn ai hết việc ra quyết định buộc thi hành án sẽ hết sức
thuận lợi bởi vụ án đã 9ược nghiên cứu kỹ lưỡng trước đây.
1.1.2. Nhóm biện pháp xử lý trách nhiệm trong thi hành án hành chính
Điều 314 Luật TTHC 2015 đã có những quy định về xử lý vi phạm trong
THAHC. Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành
bản án, quyết định của Tòa án, quyết định buộc thi hành án của Tịa án thì tùy từng
trường hợp mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của luật; người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản
trở việc thi hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Quy định này được hướng
dẫn tại Nghị định 71/2016/NĐ-CP được Chính phủ bao gồm các: xử lý kỷ luật trong
THAHC, xử phạt vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm
vật chất và các biện pháp xử lý khác. Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng
để người có thẩm quyền căn cứ vào đó nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động THAHC, bảo đảm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế.
Thứ nhất, biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong
THAHC
Biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong THAHC
được quy định từ Điều 20 đến Điều 26 của Nghị định 71/2016/NĐ-CP. Theo đó,
các quy định về chủ thể bị xử lý, căn cứ xử lý, nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ
tục và các nội dung khác có liên quan đến việc xử lý kỷ luật công chức, viên chức
đã được nêu cụ thể.
Về chủ thể bị áp dụng biện pháp xử lý kỷ luật là cán bộ, cơng chức, viên
chức đã có hành vi vi phạm pháp luật về THAHC. Chủ thể bị áp dụng biện pháp
này có một điểm đặc biệt là cán bộ, cơng chức, viên chức, đây chính là những người
vi phạm việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao liên quan đến việc thi hành
bản án, quyết định của Tịa án trong giải quyết VAHC và chủ thể có thẩm quyền áp
dụng là người đứng đầu cơ quan Nhà nước hoặc đơn vị sự nghiệp cơng lập có thẩm
7
quyền trong việc quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức bởi lẽ theo quy
định của pháp luật hiện nay thì chỉ có những chủ thể này mới có quyền xử lý kỷ luật
đối với cán bộ, cơng chức có hành vi sai phạm.
Về các hình thức kỷ luật: cơng chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật
về THAHC có thể gánh chịu một trong sáu hình thức kỷ luật sau đây: Khiển trách,
cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức và buộc thôi việc, cụ thể như sau:
- Hình thức khiển trách áp dụng đối với công chức, viên chức trong các
trường hợp sau: chậm thi hành án; chấp hành nhưng không đúng nội dung bản án,
quyết định của Tòa án trong thời hạn tự nguyện quy định tại khoản 2 Điều 311 Luật
TTHC 2015; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành án; từ chối làm việc
hoặc không cung cấp, cung cấp nhưng không đầy đủ thông tin, tài liệu có liên quan
về q trình, kết quả thi hành án cho các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
Luật TTHC và Nghị định này; có thái độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn,
phiền hà đối với người được thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án; người
đứng đầu cơ quan, tổ chức thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc
THAHC để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.
- Hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng đối với công chức, viên chức có một
trong các hành vi vi phạm pháp luật về THAHC sau đây: có hành vi quy định tại
khoản 1, 2 hoặc 3 Điều 21 Nghị định 71/2016/NĐ-CP và gây hậu quả nghiêm trọng
nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật; sau khi có
quyết định buộc THAHC mà vẫn khơng chấp hành, chấp hành không đúng hoặc
không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án; bị phạt tù cho hưởng án treo
hoặc cải tạo không giam giữ về tội không chấp hành án hoặc tội cản trở việc thi
hành án đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; viên chức không
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có một trong các hành vi quy định tại Điều 23 Nghị
định này; người đứng đầu cơ quan, tổ chức thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo,
kiểm tra, đôn đốc THAHC để xảy ra hậu quả rất nghiêm trọng.
- Hình thức kỷ luật hạ bậc lương áp dụng đối với cơng chức có một trong các
hành vi vi phạm pháp luật về THAHC sau đây: có hành vi quy định tại khoản 1, 2
hoặc 3 Điều 21 Nghị định 71/2016/NĐ-CP và gây hậu quả nghiêm trọng; sau khi có
quyết định buộc THAHC mà vẫn khơng chấp hành, chấp hành không đúng hoặc
không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án và gây hậu quả nghiêm trọng.
- Hình thức kỷ luật giáng chức áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý có một trong các hành vi vi phạm pháp luật về THAHC sau đây: sau
8
khi có quyết định buộc THAHC mà vẫn khơng chấp hành, chấp hành không đúng
hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án và gây hậu quả rất
nghiêm trọng nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật;
người đứng đầu cơ quan, tổ chức thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn
đốc THAHC, để xảy ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Hình thức kỷ luật cách chức áp dụng đối với công chức, viên chức giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý có một trong các hành vi vi phạm pháp luật về THAHC sau đây:
sau khi có quyết định buộc THAHC mà vẫn không chấp hành, chấp hành không đúng
hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án và gây hậu quả rất
nghiêm trọng; bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ về tội không
chấp hành án hoặc tội cản trở việc thi hành án; viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản
lý có một trong các hành vi quy định tại Điều 24 Nghị định 71/2016/NĐ-CP.
- Hình thức kỷ luật buộc thôi việc áp dụng đối với cơng chức, viên chức có
một trong các hành vi vi phạm pháp luật về THAHC sau đây: sau khi có quyết định
buộc THAHC mà vẫn không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ
nội dung bản án, quyết định của Tòa án và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; bị
phạt tù mà không được hưởng án treo về tội không chấp hành án hoặc tội cản trở
việc thi hành án.
Với quy định theo hướng liệt kê về các hành vi bị vi phạm bị xử lý kỷ luật
khiển trách tại Điều 21 Nghị định 71/2016/NĐ-CP đã góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp lý về xử lý kỷ luật cơng chức, viên chức, góp phần giúp người có thẩm quyền
xử lý kỷ luật nhận diện được từng loại hành vi vi phạm để tiến hành xử lý góp phần
nâng cao hiệu quả trong việc THAHC. Ngoài ra đối với đối tượng là cán bộ, Khoản 3
Điều 20 Nghị định 71/2016/NĐ-CP cũng quy định rõ: việc áp dụng các hình thức kỷ
luật, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ vi phạm trong THAHC được
thực hiện theo quy định của pháp luật, điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức
chính trị - xã hội và văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Quy định này thể
hiện sự thống nhất và đồng bộ với quy định của Luật cán bộ, công chức năm 20081.
Về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các nội dung khác có liên
quan đến việc xử lý kỷ luật công chức, viên chức vi phạm trong THAHC được thực
hiện theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức.
1
Khoản 4 Điều 74 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Việc áp dụng các hình thức kỷ luật, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ được thực hiện theo quy định của pháp luật, điều lệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”.
9
Thứ hai, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Điều 27 Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong THAHC như sau:
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân cố ý không chấp hành án hoặc cản trở thi hành
án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt vi phạm hành chính.
2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt, mức xử phạt vi phạm hành chính
thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
3. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính được gửi cho Tịa án đã xét xử sơ thẩm,
Viện kiểm sát và cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Như vậy, theo quy định trên thì chủ thể bị áp dụng hình thức này là cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong xã hội có hành vi cố ý khơng chấp hành án hoặc cản trở thi
hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên cần
lưu ý là việc xử phạt này không áp dụng đối với cán bộ, cơng chức trong q trình
thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao, bởi lẽ căn cứ Điều 1 Nghị định
81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định như sau: “Trường hợp cán
bộ, công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm khi đang thi hành công vụ,
nhiệm vụ và hành vi vi phạm đó thuộc cơng vụ, nhiệm vụ được giao, thì khơng bị xử
phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mà bị xử lý theo quy
định của pháp luật về cán bộ, cơng chức, viên chức”.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt, mức xử phạt vi phạm hành chính
khơng được Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định mà viện dẫn sang quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Chúng tơi cho rằng việc viện dẫn này là hợp
lý để tránh trường hợp trùng lấp về các nội dung của văn bản quy phạm pháp luật.
Theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện nay việc xử phạt được
áp dụng theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hơn nhân và gia
đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bởi lẽ Chính phủ chưa ban hành
Nghị định riêng để giải quyết trong lĩnh vực này. Theo đó, căn cứ vào điểm a khoản
3 Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP thì hành vi vi phạm hành chính khơng
thực hiện cơng việc phải làm, khơng chấm dứt thực hiện công việc không được làm
theo bản án, quyết định thì có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000
đồng. Căn cứ mức phạt tiền mà đương sự phải chịu thì thầm quyền xử phạt hành vi
phạm hành chính thuộc thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục THADS (theo điểm
10
b khoản 2 Điều 68 Nghị định) hoặc Cục trưởng Cục THADS (theo điểm b khoản 4
Điều 68 Nghị định).
Thứ ba, biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự
Điều 28 Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định về truy cứu trách nhiệm hình
sự trong THAHC như sau:
1. Người nào có hành vi không thi hành án, không chấp hành án, cố ý cản
trở việc thi hành án có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
2. Người đứng đầu, người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người
phải thi hành án, cơ quan THADS, cơ quan quản lý nhà nước về THAHC tùy theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm đề nghị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có dấu hiệu vi phạm pháp luật
hình sự trong THAHC.
Theo quy định trên thì có ba loại hành vi nếu có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm sẽ bị xem xét để xử lý, bao gồm: hành vi không thi hành án, không chấp hành
án, cố ý cản trở việc thi hành án. Đối với từng hành vi này được Bộ luật hình sự
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tương ứng với 3 tội sau: tội không
thi hành án, tội không chấp hành án và tội cản trở thi hành án.
- Về tội không thi hành án được quy định tại Điều 379 Bộ luật hình sự được áp
dụng đối với người có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc
không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tịa án thì tùy theo tính
chất và mức độ của hành vi phạm tội thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 10 năm Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm
chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Về tội không chấp hành án được quy định tại Điều 380 Bộ luật hình sự áp
dụng đối với người có điều kiện mà khơng chấp hành bản án hoặc quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định
của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà cịn vi phạm,
thì tùy theo tính chất và mức độ của hành vi phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến
02 năm đến 05 năm. Ngồi ra, người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng. Nghị định 71/2016/NĐ-CP cũng giải thích rõ về hành vi
khơng chấp hành án tại Khoản 7 Điều 3 như sau: “không chấp hành án là hành vi cố ý
của người phải thi hành án không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy
đủ nội dung bản án, quyết định của Tịa án về VAHC khi đã có quyết định buộc thi
11
hành bản án, quyết định của Tòa án (sau đây gọi là quyết định buộc THAHC) hoặc có
biên bản yêu cầu tổ chức thi hành án của Chấp hành viên theo quy định”.
- Về tội cản trở việc thi hành án được quy định tại Điều 381 Bộ luật hình sự
được áp dụng đối với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành
án thì tùy theo tính chất và mức độ của hình vi phạm tội thì bị phạt cải tạo khơng
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Ngồi ra, người phạm
tội cịn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Nghị định
71/2016/NĐ-CP cũng giải thích rõ về hành vi cản trở việc thi hành án tại Khoản 8
Điều 3 như sau: “Cản trở việc thi hành án là hành vi trái pháp luật tác động đến
quá trình thi hành án dẫn đến chậm thi hành, không thi hành hoặc thi hành không
đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tịa án”.
Trách nhiệm đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự trong THAHC thì tùy theo
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà sẽ do người đứng đầu, người đứng
đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án, cơ quan THADS hoặc cơ
quan quản lý nhà nước về THAHC thực hiện.
Với việc phân tích về việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong THAHC có thể
rút ra một số kết luận sau: một là, đối với các hành vi không thi hành án, không
chấp hành án, cản trở việc thi hành án có thể được thể hiện dưới nhiều hành vi khác
nhau nhưng hậu quả có thể thấy được trên thực tế là giống nhau, cụ thể là các hành
vi trên làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về VAHC
khơng được thi hành hoặc việc thi hành thiếu hiệu quả; hai là, quy định của Bộ luật
hình sự và Nghị định 71/2016/NĐ-CP về việc quy định việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với các hành vi trên là rõ ràng và cụ thể tạo điều kiện cho người có thẩm
quyền khởi tố, truy tố người có hành vi phạm tội.
Thứ tư, xử lý trách nhiệm vật chất trong THAHC
Việc xử lý trách nhiệm vật chất trong THAHC được quy định tại Điều 29
Nghị định 71/2016/NĐ-CP: “Người phải thi hành án trong quá trình thi hành án
mà gây ra thiệt hại thì phải khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, hoàn trả theo
quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, pháp luật về dân
sự”. Ngoài ra Khoản 2 Điều 314 Luật TTHC 2015 quy định “Người lợi dụng chức
vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
12
Nếu căn cứ theo Nghị định thì chủ thể có trách nhiệm vật chất là người phải
thi hành án tức là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án,
quyết định của Tòa án về VAHC được thi hành. Trong khi đó nếu căn cứ theo Luật
TTHC 2015 thì chủ thể bị áp dụng hình thức xử lý này cịn có người lợi dụng chức
vụ, quyền hạn tức là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước.
Thứ năm, các biện pháp xử lý khác trong THAHC
Bên cạnh các biện pháp xử lý trách nhiệm như xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm
hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm vật chất; Nghị định số
71/2016/NĐ-CP còn quy định các biện pháp xử lý trách nhiệm khác trong THAHC, đó
là: cơng khai thơng tin về việc không chấp hành án; xem xét đánh giá, phân loại cán bộ,
công chức, viên chức vi phạm pháp luật về THAHC.
- Biện pháp công khai thông tin về việc không chấp hành là một quy định
tiến bộ của Nghị định 71/2016/NĐ-CP. Mặc dù đây là biện pháp mới được quy định
trong pháp luật TTHC nhưng đã được áp dụng khá lâu trong các lĩnh vực khác như
THADS. Việc cơng khai thơng tin này khơng chỉ góp phần tạo ra sức ép, khiến cho
người không chấp hành án nhanh chóng thi hành bản án, quyết định của Tịa án mà
cịn giúp cho những chủ thể liên quan có thể dễ dàng theo dõi được quá trình thi
hành án của người phải thi hành.
- Việc được xét thi đua, khen thưởng cũng như được đánh giá cao trong việc
thực hiện nhiệm vụ là mục tiêu phấn đấu cũng như động lực quan trọng thúc đẩy mỗi
cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, đối với những cán bộ, công
chức, viên chức vi phạm pháp luật về THAHC thì việc khơng được xem xét xét thi
đua, khen thưởng, không được đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành tốt nhiệm vụ,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sẽ có tác động tích cực nhất định đến nhận thức và
hành vi của các chủ thể này trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án về VAHC.
1.1.3. Biện pháp kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm đối với người phải
thi hành án
Việc kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án
được quy định kể từ khi ban hành Luật TTHC năm 2010 và được Luật TTHC 2015
kế thừa nhưng có nhiều sửa đổi. Biện pháp kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm đối
với người phải thi hành án là một trong những yếu tố bảo đảm cho bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế.
13
Theo quy định của Luật TTHC 2010 trước đây, trong trường hợp người phải
thi hành án không thi hành bản án, quyết định của Tồ án thì trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản, người được thi hành án có quyền gửi
đơn đề nghị cơ quan THADS nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm đôn đốc việc thi hành
bản án, quyết định của Tồ án. Khi nhận được đơn đề nghị đơn đốc của người được
thi hành án, cơ quan THADS đôn đốc người phải thi hành án thi hành án và thông
báo bằng văn bản với cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án để chỉ
đạo việc thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát thi hành
án. Khi nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án quy định tại
khoản 3 Điều này, cơ quan THADS có trách nhiệm mở sổ theo dõi, quản lý việc thi
hành án của người được thi hành án. Người được thi hành án có trách nhiệm cung
cấp cho cơ quan THADS bản sao bản án, quyết định của Toà án và các tài liệu khác
có liên quan để chứng minh đã có đơn đề nghị hợp lệ nhưng người phải thi hành án
cố tình khơng thi hành án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án, cơ quan THADS phải có văn bản
đơn đốc người phải thi hành án thực hiện việc thi hành án theo đúng nội dung của
bản án, quyết định của Toà án2.
Tuy nhiên, Luật TTHC 2015 có sự sửa đổi quan trọng khi quy định cơ quan
THADS khơng cịn có thẩm quyền đơn đốc việc THAHC mà thay vào đó là thuộc về
thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành
án. Theo đó, Điều 8 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án bao gồm: kiểm tra,
đôn đốc và xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án thuộc thẩm quyền quản
lý theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan;xem xét xử lý kỷ luật
hoặc đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có hành vi chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành
không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án theo quy định
của pháp luật; xem xét xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án theo kiến
nghị của cơ quan THADS, cơ quan quản lý nhà nước về THAHC và thông báo kết
quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị trong thời hạn 05 ngày làm việc.
Việc sửa đổi theo hướng trên của Luật TTHC 2015 là phù hợp bởi do hoạt
động THAHC đối với phần quyết định về tính hợp pháp của quyết định hành chính,
2
Khoản 3 và Khoản 4 Điều 244 Luật TTHC năm 2010.
14
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, danh sách cử tri, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thực chất là hoạt động
hành chính nhà nước. Vì thế, chỉ có thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người
phải thi hành án mới đủ thẩm quyền kiểm tra, đơn đốc việc thi hành án của cấp dưới
và có thể xử lý trách nhiệm trong trường hợp người phải thi hành án không nghiêm
chỉnh thực hiện trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật. Do đó, pháp luật
cần quy định cụ thể nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc và cơ chế xử lý trách nhiệm của
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp trên trực tiếp đối với cơ quan hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải THAHC khi cơ quan, tổ chức này
không nghiêm chỉnh thi hành án trong thời hạn nhất định3.
1.1.4. Biện pháp theo dõi việc thi hành án hành chính của cơ quan thi hành
án dân sự
Theo dõi THAHC đươc hiểu lả việc cơ quan THADS chủ động nắm thơng
tin và cập nhật về tình hình thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC, trên
cơ sở đó đề nghị người phải thi hành án chấp hành nghiêm bản án, quyết định đã có
hiệu lực thi hành, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết có giải
pháp bảo đảm thực thi bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế.
Như đã đề cập ở trên, các cơ quan THADS có trách nhiệm theo dõi THAHC,
trong đó Luật TTHC 2015 và Nghị định 71/2016/NĐ-CP đã quy đinh rõ trách
nhiệm theo dõi THAHC của các cơ quan THADS, cụ thể:
- Về thẩm quyền theo dõi THAHC: theo quy định tại Điều 14 Nghị định số
71/2016/NĐ-CP, cơ quan THADS có thẩm quyền theo dõi THAHC đối với các bản
án, quyết định của Tòa án về VAHC mà Tòa án cùng cấp trên cùng địa bàn đã xét
xử sơ thẩm. Theo đó, thẩm quyền theo dõi THAHC của các cơ quan THADS (đối
với các vụ việc có bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của
Tịa án) khơng phụ thuộc vào Tịa án cấp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm sự việc mà phụ thuộc cấp Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ việc.
- Về thời điểm phát sinh trách nhiệm theo dõi THAHC: Điều 14 Nghị định số
71/2016/NĐ-CP quy định: “Khi tiếp nhận bản án, quyết định, cơ quan THADS phải
kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định...phân công Chấp hành viên thực hiện theo
dõi việc THAHC”. Theo đó, trách nhiệm theo dõi THAHC của cơ quan THADS phát
sinh khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án về VAHC. Đây là điểm khác biệt
3
Nguyễn Thị Thương Huyền (chủ nhiệm) (2012), Bảo đảm quyền con người trong thi hành án hành chính ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường tại Trường Đại học Luật Tp.HCM, tr. 35.
15
cơ bản giữa trách nhiệm theo dõi THAHC theo Luật TTHC 2015 với trách nhiệm đôn
đốc THAHC của cơ quan THADS theo quy định của Luật TTHC 2010 (Luật TTHC
2010 quy định trách nhiệm đôn đốc THAHC của cơ quan THADS phát sinh khi nhận
được đơn đề nghị đôn đốc THAHC của ngươi được thi hành án).
Về nguyên tắc, cơ quan THADS có trách nhiệm theo dõi tồn bộ bản án,
quyết định về VAHC của Tòa án cùng cấp trên địa bàn đã xét xử sơ thẩm. Vì vậy,
để thực hiện tốt chức năng theo dõi THAHC, các cơ quan THADS cần phối hợp tốt
với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án
về VAHC đến các cơ quan THADS để theo dõi theo quy định.
- Về nội dung theo dõi THAHC: Nghị định số 71/2016/NĐ-CP đã quy định
rõ trách nhiệm theo dõi THAHC của cơ quan THADS với các nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án về VAHC do Tòa án gửi hoặc đương
sự cung cấp và ra thông báo về việc tự nguyện thi hành án gửi người phải thi hành án.
+ Trường hợp phát hiện bản án, quyết định của Tòa án tuyên chưa rõ hoặc có
sai sót, có quyền yêu cầu Tịa án đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản
những điểm chưa rõ, đính chính sai sót trong bản án, quyết định để thi hành; kiến
nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối
với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp vụ việc có quyết định buộc thi hành án án của Tòa án, cơ quan
THADS (trực tiếp là Chấp hành viên được phân công theo dõi vụ việc) làm việc với
người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyêt định của
Tòa án; tổ chức đăng tải công khai quyết định buộc THAHC trên trang thông tin
điện tử của Cục THADS theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP
Ngoài ra, trong từng trường hợp THAHC cụ thể, cơ quan THADS có quyền
triệu tập các bên được sự để lập biên bản về việc không thi hành bản án, quyết định
tuyên hủy quyết định buộc thôi việc (khoản 2, Điều 17 Nghị định số 71/2017/NĐCP); lập biên bản về việc không thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án.
+ Có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối
với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không
đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của
pháp luật.
- Trình tự, thủ tục thực hiện theo dõi THAHC của cơ quan THADS
+ Căn cứ Nghị định số 71/2016/NĐ-CP, việc thực hiện theo dõi THAHC của
cơ quan THADS được thực hiện theo các bước cơ bản như sau:
16
Bước 1: tiếp nhận, kiểm tra, vào sổ bản án, quyết định của Tòa án về VAHC
(thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP); phân
công Chấp hành viê thực hiện theo dõi việc THAHC (khoản 2 Điều 14 Nghị định số
71/2016/NĐ-CP).
Bước 2: ra văn bản thông báo về việc tự nguyện thi hành án gửi người phải
thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được bản án, quyết
định của Tòa án (khoản 2, Điều 14 Nghị định 71/2016/NĐ-CP)
Hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi ành án không chấp hành
hoặc chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa
án theo quy định của Luật TTHC và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP, cơ quan THADS
có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người
phải thi hành án (khoản 5 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP).
Bước 3: trong trường hợp vụ việc có Quyết định buộc thi hành án hành
chhính của Tịa án, cơ quan THADS thực hiện:
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết dịnh buộc
THAHC, Chấp hành viên được phân công theo dõi việc thi hành án phải làm việc
với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định
của Tòa án (khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP).
- Có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối
với người phải thi hành án không chấp hành hoặc chấp hành không đúng hoặc không
đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Luât TTHC 2015
và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP (khoản 5 Điều 14 Nghị định 71/2016/NĐ-CP);
- Gửi hoặc đăng tải công khai Quyết định buộc THAHC trên Cổng thông tin
điện tử của Cục THADS, tích hợp trên Cơng thơng tin điện tử của Tổng cục
THADS thuộc Bộ Tư pháp và Công thông tin điện tử của Chính phủ trong trường
hợp người phải thi hành án là UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; chấm dứt công khai thông tin
trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thi hành
xong (Điều 30 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP );
- Ngoài ra, trong từng trường hợp THAHC cụ thể, cơ quan THADS có quyền
triệu tập các bên đương sự để lập biên bản về việc không thi hành án bản án, quyết
định tuyên hủy quyết định buộc thôi việc (khoản 2 Điều 17 Nghị định số
71/2016/NĐ-CP); lập biên bản về việc không thi hành án theo yêu cầu của người
được thi hành án.
17
Bước 4: cập nhật thơng tin, tình hình THAHC vào hồ sơ theo dõi THAHC vụ
việc và báo cáo đột xuất hoặc định kỳ tình hình theo dõi THAHC theo quy định của
pháp luật.
Trong quá trình thực hiện theo dõi THAHC nêu trên, cơ quan THADS có các quyền
như sau:
(1) Yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích bằng băn bản những
điểm chưa rõ, đính chính sai sót trong bản án, quyết định để thi hành;
(2) Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật (khoản 6 Điều
14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP);
(3) Yêu cầu người được thi hành án, người phải thi hành án, Thủ trưởng trực
tiếp của người phải thi hành án cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan về q trình
và kết quả thi hành án (khoản 4 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP).
1.1.5. Biện pháp kiểm sát thi hành án hành chính
Kiểm sát thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC cũng được xem
là một trong những biện pháp hữu hiệu để bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định
của Tịa án trong VAHC. Luật TTHC 2015 khơng dành một điều khoản riêng để
quy định về nội dung kiểm sát THAHC mà được quy định lồng ghép chung tại Điều
315 về kiểm sát THAHC. Bên cạnh đó, ngày 20/12/2016, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao ra Quyết định số 810/QĐ-VKSTC về việc ban hành Quy chế
công tác kiểm sát THADS và THAHC. Đây là những căn cứ quan trọng giúp Kiểm
sát viên thực hiện được nhiệm vụ, công vụ được giao một thuận lợi, đúng đắn và
khách quan trong việc kiểm sát THAHC. Tại Chương II của Quy chế đã có những
hướng dẫn cụ thể về nội dung kiểm sát THAHC, bao gồm: kiểm sát việc cấp,
chuyển giao bản án, quyết định; giải thích, đính chính, sửa chữa, bổ sung; giải quyết
yêu cầu, kiến nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát việc ra quyết
định thi hành án, yêu cầu, đôn đốc thi hành bản án, quyết định hành chính; kiểm sát
việc thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án; kiểm sát việc thi hành
bản án, quyết định của Tịa án về VAHC… Thơng qua việc thực hiện hoạt động
này, Kiểm sát viên sẽ kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân có liên quan trong quá trình THAHC để đưa ra những yêu
cầu, kiến nghị người có thẩm quyền xử lý hoặc khắc phục các hành vi vi phạm
nhằm bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án được
thi hành nghiêm minh.
18
1.2. Các biện pháp bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội
1.2.1. Biện pháp bảo đảm về chính trị
Chính trị được hiểu là những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà
nước trong nội bộ một nước, và về quan hệ về mặt nhà nước giữa các nước với
nhau4. Bảo đảm về chính trị đối với việc thi hảnh bản án, quyết định của Tịa án
trong giải quyết VAHC được thực hiện thơng qua các yếu tố sau:
Một là, thông qua đường lối, chính sách của Đảng đối với việc bảo đảm thi
hành, bản án, quyết định của Tòa án về VAHC. Trong nhiều Văn kiện và Nghị
quyết của Đảng được ban hành trong giai đoạn trước đây và hiện nay, các nội dung
lớn trong định hướng về cải cách tư pháp đều được xác định rõ về chủ trương và
đường lối đổi mới về việc thi hành án nói chung và THAHC nói riêng, tiêu biểu là
các Văn kiện, Nghị quyết sau: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004)
và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở các văn kiện, nghị
quyết này, Quốc hội nước ta đã ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật về
THAHC để bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được hiệu quả.
Hai là, Đảng và một số cơ quan trong hệ thống chính trị thực hiện việc kiểm
tra, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong VAHC. Trên cơ sở
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện ra các sai phạm trong
quá trình thi hành bản án, quyết định của Tịa án để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý
kịp thời đối với các hành vi sai phạm nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định của Tịa
án được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế.
1.2.2. Biện pháp bảo đảm về kinh tế
Yếu tố kinh tế đóng vai trỏ quan trọng trong việc bảo đảm thi hành bản án,
quyết định của Tòa án khơng chỉ đối với nhà nước mà cịn đối với cá nhân, cơ quan
và tổ chức có quyền và nghĩa vụ liên quan đến đến việc thi hành án.
4
Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, tr. 206.
19
Đối với Nhà nước, nếu một quốc gia có tiềm lực kinh tế vững mạnh thì cơng
tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC sẽ được bảo đảm thực hiện tốt
hơn vì Nhà nước sẽ dùng ngân sách để bảo đảm các điều kiện cho việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án một cách có quả nhất, cụ thể như: Nhà nước dùng ngân sách để
xây dựng cơ chế pháp lý hoàn thiện về thi hành bản án, quyết định của Tòa án về
VAHC, trên cơ sở có một hệ thống quy phạm pháp luật về THAHC hồn thiện thì hiệu
quả thi hành án sẽ được nâng cao; Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất cũng như cung
cấp các trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác thi hành án; Nhà nước dùng
ngân sách chi cho việc tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về thi hành án để
giúp cho cá nhân, cơ quan và tổ chức có nhận thức pháp luật tốt hơn về cơng tác này.
Ngồi ra, Ngân sách nhà nước phải luôn bảo đảm một nguồn kinh phí nhất định để bảo
đảm cho việc thi hành án trong trường hợp Nhà nước là người phải THAHC.
Đối với cá nhân, cơ quan và tổ chức trong xã hội phải có một nguồn tài chính
tốt mới có thể bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp bị xâm phạm bởi các
khiếu kiện nói chung và trong việc thi hành bản án, quyết định của Tịa án nói riêng.
Trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong VAHC thì nguồn lực kinh
tế của người thi hành án có ý nghĩa rất quan trọng để bảo đảm bản án của Tòa án
được thực thi. Trường hợp bản án, quyết định của Tịa án về việc khơng chấp nhận
yêu cầu khởi kiện đối với quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử
tri thì các bên đương sự phải tiếp tục thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, danh sách cử tri theo quy định của pháp luật. Nếu như trong trường hợp này
cá nhân, cơ quan và tổ chức thua kiện thì họ sẽ tiếp tục thực thi các khiếu kiện do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và phần lớn các quyết định này đều tác
động đến lợi ích về kinh tế của họ, ví dụ như: nộp vào ngân sách một khoảng tiền
do hành vi vi phạm hành chính, bị tịch thu tang vật, phương tiện liên quan đến việc
vi phạm, tiến hành việc giao đất cho Nhà nước khi bị thu hồi…Rõ ràng việc thi
hành các nội dung này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất cũng như tinh
thần của người dân, vì vậy, nếu họ có một tiềm lực kinh tế tốt thì việc thi hành bản
án, quyết định của Tòa án sẽ được bảo đảm hơn rất nhiều.
1.2.3. Biện pháp bảo đảm về văn hóa, xã hội
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác văn hóa là tri thức, kiến thức
20
khoa học5. Trong khi đó, xã hội được hiểu là hình thức sinh hoạt chung có tổ chức
của lồi người ở một trình độ phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sở
một phương thức sản xuất nhất định. Yếu tố văn hóa, xã hội có tác động và ảnh
hưởng quan trọng đến việc bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong
VAHC. Trên cơ sở nhận thức đúng về pháp luật TTHC nói chung và pháp luật về
THAHC nói riêng sẽ bảo đảm cho việc thực thi bản án, quyết định của Tòa án được
hiệu quả hơn, cụ thể như sau:
- Đối với những quốc gia có nền văn hóa, xã hội phát triển mạnh mẽ thì việc
thực thi phán quyết của Tịa án sẽ cao hơn so với quốc gia có nền văn hóa, xã hội
chậm phát triển. Ở các nước có nền văn hóa, xã hội phát triển thì trình độ nhận thức
về xã hội nói chung và pháp luật của người dân nói riêng sẽ được nâng cao vì vậy
việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ mang tính tự nguyện thi hành, cơ
quan có thẩm quyền ít dùng các biện pháp mang tính cưỡng chế để buộc thi hành án.
- Đối với xã hội dân chủ, nền văn hóa tiên tiến thì các giá trị, chuẩn mực tốt
đẹp của pháp luật luôn được Nhà nước, cá nhân, tổ chức trong xã hội tôn trọng và
thực hiện triệt để. Bản án, quyết định của Tòa án trong các vụ án nói chung và
VAHC nói riêng ln được tôn trọng và chấp hành tốt đặc biệt là từ phía của cơ
quan nhà nước.
- Những vi phạm từ hoạt động thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong
VAHC tại các nước phát triển được phát hiện và xử lý kịp thời. Đặc biệt là sự lên
tiếng của cơ quan ngôn luận, cộng đồng xã hội là những yếu tố bảo đảm phán quyết
của Tòa án được thực thi.
5
Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, tr. 1396.
21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH CỦA TỊA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.1. Thực trạng thực hiện những biện pháp bảo đảm thi hành bản án,
quyết định của Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính
2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng những biện pháp bảo đảm
thi hành bản án, quyết định của Tịa án trong q trình giải quyết vụ án hành chính
Những biện pháp bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong giải
quyết VAHC là những biện pháp khơng thể thiếu nhằm góp phần đưa các bản án,
quyết định có hiệu lực của Tịa án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân. Luật TTHC 2015, Nghị định 71/2016/NĐ-CP và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đã có những sửa đổi và những quy định
mới theo hướng cụ thể hóa việc áp dụng các biện pháp này.
- Thứ nhất, những kết quả đạt được về công tác ban hành văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến những biện pháp bảo đảm thi hành bản án, quyết định của
Tòa án trong giải quyết VAHC
Nhận thức được tầm quan trọng của THAHC nói chung và những biện pháp
bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tịa án trong giải quyết VAHC nói riêng,
ngay từ khi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VAHC được Ủy ban Thường vụ Quốc
hội IX thông qua ngày 21/5/1996 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 1998 và năm 2006
đã có điều luật quy định về việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC. Tuy
nhiên, trong Pháp lệnh chỉ dành một điều luật duy nhất để quy định về THAHC một
cách chung chung mà chưa có những quy định cụ thể về những biện pháp bảo đảm thi
hành bản án, quyết định của Tịa án trong q trình giải quyết VAHC.
Tiếp sau đó, Luật TTHC 2010 đã được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2010
và Luật TTHC 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 đều dành riêng một
chương để quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý và thi
hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC. Bên cạnh đó, vấn đề thi hành bản án,
quyết định của Tòa án về VAHC ngày càng được chú trọng hơn khi Chính phủ lần
đầu tiên ban hành Nghị định 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về thời hạn, trình tự,
thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết
định của Tịa án, đã có những quy định cụ thể hơn trong quá trình thi hành án.