Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

QUAN HỆ GIỮA LUẬT SƯ VỚI THẨM PHÁN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.17 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LUẬT SƯ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ

Đề tài:

QUAN HỆ GIỮA LUẬT SƯ VỚI THẨM PHÁN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Họ và tên
Ngày sinh
Số báo danh
Lớp Luật sư

: MAI THÀNH TRUNG
: 25/01/1994
: 659
: 23.2K.HCM

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... 2
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
PHẦN 2: NỘI DUNG ......................................................................................................... 4
1. Khái niệm và một số đặc điểm của mối quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán 4
1.1
Khái niệm ........................................................................................................... 4


1.2
Một số đặc điểm của mối quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán ....................... 5
2. Thực trạng mối quan hệ giữa Luật sư và Thẩm phán và nguyên nhân............. 6
2.1
Măt tích cực ....................................................................................................... 6
Thực trạng: ................................................................................................................ 6
Nguyên nhân: ............................................................................................................ 7
2.2
Mặt tồn tại, hạn chế............................................................................................ 7
a. Về phía Luật sư .................................................................................................. 7
Thực trạng: ................................................................................................................ 7
Nguyên nhân: ............................................................................................................ 8
b. Về phía Thẩm phán ............................................................................................ 8
Thực trạng: ................................................................................................................ 8
Nguyên nhân: ............................................................................................................ 9
c. Về cả hai phía Luật sư và Thẩm phán................................................................ 9
Thực trạng: ................................................................................................................ 9
Nguyên nhân: .......................................................................................................... 10
3. Kiến nghị giải pháp cải thiện và nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa Luật
sư vớii Thẩm phán ........................................................................................................ 10
PHẦN 3: KẾT LUẬN ...................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 13

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
LS
TP
CQTHTT


: Luật sư
: Thẩm phán
: Cơ quan tiến hành tố tụng

2


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Khác với việc hành nghề bằng tư cách đại diện ngoài tố tụng hay tư vấn, người LS
khi tham gia tố tụng đã hình thành cho mình các mối quan hệ vô cùng đa dạng, phức tạp
với nhiều chủ thể khác nhau như cá nhân, tổ chức, các cơ quan nhà nước, CQTHTT và
người tiến hành tố tụng. Trong đó có mối quan hệ thường xuyên, mật thiết với TP. Mối
quan hệ với này, đơi khi có thể là lợi thế cho LS, nhưng đôi khi, cũng có thể là những thách
thức dành cho người LS. Bởi lẽ, về bản chất vai trò nghề nghiệp, LS và TP trong tố tụng
tồn tại ở hai địa vị pháp lý, hai tư cách tố tụng có tính chất đối trọng, giám sát lẫn nhau. Do
đó, trong q trình tiếp xúc, làm việc, thì giữa LS và TP khó tránh khỏi những góc nhìn
khác nhau, thậm chí là những quan điểm, ý kiến nghiệp vụ trái ngược nhau. Chưa kể, các
mối quan hệ còn thường xuyên bị tác động, chi phối bởi mơi trưởng khách quan bên ngồi,
bởi các chủ thể khác và có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan như tình cảm, phong cách
hành xử, đạo đức, lối sống của mỗi bên.
Vậy, trong mối quan hệ với TP, các vấn đề quan trọng cần được đặt ra cho LS là:
Một là, mối quan hệ giữa LS với TP là gì, có những đặc điểm nào để các bên có thể
nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này.
Hai là, mối quan hệ giữa LS với TP đang có những điểm tích cực nào để người LS
có thể tiếp tục phát huy hay những tồn tại, hạn chế nào để để có thể rút kinh nghiệm, tránh
lặp lại các trường hợp khó xử, hiểu nhầm khơng đáng có giữa hai bên, thậm chí là những
“xung đột tiềm tàng” trong mối quan hệ giữa những người được công chúng, xã hội nhìn
nhận là đồng nghiệp của nhau trong công tác thực thi và bảo vệ pháp luật.
Ba là, làm thể nào để LS có thể xây dựng, duy trì và nâng cao mối quan hệ với TP

để tạo ra khơng khí làm việc thuận lợi, hài hịa ở chốn pháp đình, cải thiện mơi trường pháp
lý thêm lành mạnh, thúc đẩy được các hoạt động tố tụng trơn tru, đúng pháp luật, hoạt động
nghề nghiệp của LS ngày càng đi lên. Từ đó, người LS có thể nâng cao hình ảnh, vai trị
của mình trong mắt CQTHTT, người tiến hành tố tụng để cùng nhau hướng đến nhiệm vụ
chung là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đó là lý do mà em chọn đề tài “Quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán – Thực trạng
và Giải pháp” để tìm hiểu, phân tích và giải quyết ba vấn đề trên; từ đó, có thể trang bị các
kiến thức, kỹ năng cần thiết để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này.

3


PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Khái niệm và một số đặc điểm của mối quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán
1.1 Khái niệm
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ được hiểu là sự tác động qua lại giữa hai
(hoặc nhiều hơn hai) đối tượng có liên quan với nhau. Có nhiều loại quan hệ trên thực tế
nhưng có hai quan hệ phổ biến chi phối chúng ta là quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật.
Trong đó, quan hệ pháp luật là “các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật khác nhau, những quan hệ xã hội này xác lập, phát triển, tồn tại hay chấm
dứt dựa trên quy định của pháp luật”1. Quan hệ này có bốn đặc điểm quan trọng là:
-

Phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật;
Mang tính ý chí, đây là ý chí của Nhà nước sau đó mới là ý chí của các bên
tham gia vào quan hệ;
Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện quan hệ pháp luật;
Khi tham gia quan hệ này, các bên bị ràng buộc bằng quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật quy định.


Cịn về quan hệ xã hội thì có tính khái quát và hàm ý rộng hơn, đó là “những quan
hệ giữa người với người được hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính
trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, ...” ,“được hình thành từ tương tác xã hội” và
mang đặc điểm là phụ thuộc vào tình cảm, cách hành xử, phong tục, tập quán, đạo đức, tôn
giáo hoặc quy phạm của các tố chức phi nhà nước, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen,
bằng lương tâm, niềm tin nội tâm, bằng dư luận xã hội hoặc bằng các biện pháp cưỡng chế
phi nhà nước.
Ở mức độ hẹp hơn, quan hệ giữa LS với người tiến hành tố tụng trong đó có TP được
định nghĩa như sau “Mối quan hệ giữa LS với cơ quan, người tiến hành tố tụng và CQNN,
tổ chức, cá nhân về bản chất là mối quan hệ công việc, chức năng, nhiệm vụ, vai trị của
mỗi vị trí, chức danh khi giải quyết vụ việc” 2.
Có thể thấy rằng, khi tham gia tố tụng, cả LS và TP sẽ bị điều chỉnh bởi rất nhiều
quy phạm pháp luật như pháp luật về tố tụng, Luật Luật sư, Luật tổ chức Tòa án nhân dân…
bên cạnh các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của LS và TP. Không chỉ vậy, giữa
LS và TP là những con người có hoạt động và làm việc, trao đổi với nhau, nhìn nhận nhau

1

Trang 305, Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Giáo
dục.
2
Trang 280, Học viện Tư pháp (2021), Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư, Nhà xuất bản Tư pháp.

4


qua phong cách làm việc, tình cảm, đạo đức, lối sống… Do vậy, mối quan hệ này giữa hai
bên mang cả đặc điểm của quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội.
Vậy, có thể mạnh dạn đưa ra định nghĩa cho mối quan hệ giữa LS với TP như sau:

“Quan hệ giữa LS với TP là quan hệ luật định giữa LS với người tiến hành tố tụng trong
quá trình tham gia tố tụng; về bản chất là mối quan hệ công việc, là đồng nghiệp của nhau
trong công tác pháp luật”.
1.2 Một số đặc điểm của mối quan hệ giữa Luật sư với Thẩm phán
Từ khái niệm nêu ở trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm nổi bật của mối quan hệ
giữa LS và TP như sau:
Thứ nhất, quan hệ giữa LS với TP xuất hiện khi LS tham gia tố tụng và chịu sự điều
chỉnh của pháp luật:
Thật vậy, pháp luật về tố tụng dân sự lẫn hình sự hiện hành đều quy định cho LS các
quyền về nghiên cứu hồ sơ vụ án, sao chép những tài liệu cần thiết trong hồ sơ vụ án, yêu
cầu cung cấp tài liệu, thu thập, xác minh thêm các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án,
tham gia việc hoà giải, trao đổi ý kiến về nghiệp vụ với TP, đề nghị TP xem xét để cấp
giấy chứng nhận người bào chữa … Như vậy, rất nhiều quy phạm pháp luật đề cập đến
các hoạt động, cơng việc trong đó có sự tiếp xúc, trao đổi, làm việc giữa LS và TP diễn ra
trong quá trình tố tụng. Chính những quy định pháp luật này là căn cứ để hình thành nên
mối quan hệ giữa LS và TP, là cơ sở cho quyền và nghĩa vụ của hai bên và cũng là sự đảm
bảo cho việc thực hiện của mối quan hệ này.
Thứ hai, quan hệ giữa LS và TP là mối quan hệ tương hỗ trong công công tác pháp
luật, cùng hướng đến mục tiêu chung là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân:
Có thể nói rằng, tuy địa vị pháp lý và tư cách tố tụng của LS, TP, kiểm sát viên, điều
tra viên mỗi người mỗi lúc tuy có khác nhau nhưng trên hết họ là những đồng nghiệp của
nhau trong hệ thống các cơ quan pháp luật, cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Dưới góc
nhìn của cơng chúng thì hình ảnh, thanh danh, uy tín của LS và TP đều được xem là những
người cùng một mảng nghề nghiệp về tư pháp, pháp luật, cùng hội cùng thuyền trong cơ
chế thực thi, bảo vệ pháp luật và đều mang trong mình nhiệm vụ hỗ trợ, phối hợp lẫn nhau
trong khn khổ pháp luật để cùng nhau tìm ra sự thật của vụ án, có được những phán quyết
chính xác đảm bảo cơng bằng, lẽ phải, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
để bảo vệ lợi ích của xã hội.


5


Thứ ba, quan hệ giữa LS với TP có tính chất đối trọng và giám sát lẫn nhau:
Vai trò đối trọng nói trên thể hiện ở chỗ, LS và TP, thì một bên bảo vệ quyền và ích
hợp pháp của khách hàng, một bên thực thi quyền lực Nhà nước nên khó mà tránh khỏi
những ý kiến khác nhau, thậm chí là sự mâu thuẫn, sự trái ngược về quan điểm trong công
cuộc bảo vệ cái riêng, cái tôi cá nhân và cái chung, lợi ích tập thể. Trong các vụ án hình sự,
hoạt động tích cực của LS với vai trò là người bào chữa, người “gỡ tội” cho bị can, bị cáo
trước các bên “buộc tội”, “gán tội” tạo nên thế đối kháng nhằm cân bằng lợi ích giữa các
chủ thể, góp phần to lớn vào việc bảo vệ cơng lý. Cịn trong các vụ án dân sự, hành chính,
lao động…thì sự tham gia của LS là để đối kháng giữa một bên chứng minh và bên phán
quyết nhằm tìm ra những quan điểm, ý kiến phù hợp để tìm ra lợi ích tối ưu phù hợp với
quy định pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp.
Về vai trò giám sát của LS với TP, theo lý thuyết, đây là vai trò được pháp luật xây
dựng, thiết kế để kiểm tra, duy trì và bảo nền tư pháp độc lập, để các phán quyết không bị
phiến diện, bị ảnh hưởng bởi một thế lực nào khác. Trước đây, quá trình xét xử của tịa án
ở nước ta nặng theo nguyên tắc thẩm vấn, LS hầu như chỉ đóng vai trị thứ yếu. Do đó,
nhiều trường hợp, LS khơng được tạo điều kiện để phát huy vai trò giám sát dẫn đến nhiều
TP nói riêng và người tiến hành tố tụng nói chung có nhiều vi phạm trong việc thực hiện
các trình tự, thủ tục tố tụng luật định, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân.
Sau này, LS phát huy vai trị giám sát của mình, thực hiện việc khiếu nại theo luật định để
“xem xét lại quyết định, hành vi trong tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng, khi có
căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp” 3, phát hiện những sai lầm, thiếu sót trong q trình giải quyết vụ án của các TP, góp
phần vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý công minh, không để lọt tội phạm hoặc
làm oan người vô tội. trung tâm.
2. Thực trạng mối quan hệ giữa Luật sư và Thẩm phán và nguyên nhân
2.1 Măt tích cực

Thực trạng:
Một là, mối quan hệ giữa TP và LS ngày càng được cải thiện, đi vào khuôn khổ pháp
luật, được cả LS và TP ngày càng tôn trọng và đánh giá đúng mực. Công bằng mà nói, hiện
nay, trong q trình hành nghề, LS cũng đã nhận được sự giúp đỡ hiệu quả của những người

3

Khoản 22 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định đương sự có quyền khiếu nại bản án, quyết định của Tòa
án, hoặc Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại: Điều 32 về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
và Điều 33 về kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự.

6


đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tịa án, nhất là khi gặp vướng mắc từ những
cán bộ, công chức thừa hành.
Hai là, quan hệ đối trọng, kiểm soát giữa LS và TP đã ngày càng đi vào thực chất,
hiệu quả, chặt chẽ, bảo đảm sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau trong hoạt động tố tụng. Đơn
cử, theo báo cáo của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, trong giai đoạn 2016-20204, các Tòa án
đã giải quyết 26.770/27.085 đơn khiếu nại quyết định tố tụng và hành vi tố tụng, đạt tỷ lệ
98,8%. Trong đó năm 2020, các Tòa án đã giải quyết 5.261/5.576, đạt tỷ lệ 94,4%. Nhiều
khiếu nại đến từ các LS, Đoàn LS và Liên đồn LS Việt Nam cho thấy vai trị của LS trong
việc khiếu nại, tố cáo thể hiện sự khách quan, thận trọng và trách nhiệm nhằm giúp tòa án
các cấp có căn cứ rà sốt, kiểm tra, đánh giá lại công tác tổ chức, đào tạo cán bộ của mình,
trong đó có các TP.
Ngun nhân: Những tín hiệu tích cực trên có thể là thành quả của chiến lược cải
cách tư pháp với mục tiêu “lấy Tòa án trung tâm, xét xử làm trọng tâm và lấy tranh tụng
làm khâu đột phá”. Chính việc cải cách này cùng với công tác đào tạo, quan tâm của Nhà
nước, xã hội đã làm cho đội ngũ LS và TP được củng cố về số lượng lẫn chất lượng, thường
xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, từng bước đáp ứng được yêu cầu cải cách

tư pháp. Từ đó, LS và TP hay những người tiến hành tố tụng khác đã có thể nhận thức đúng
và ngày càng hiểu rõ hơn vị trí, vai trị, quyền và nghĩa vụ lẫn nhau của các bên trong tố
tụng. Các bên đã biết nhìn nhận tầm quan trọng của nhau, thấu hiểu khó khăn của nhau từ
đó biết thơng cảm, chia sẻ, tạo điều kiện cho nhau để giải quyết công việc chung được nhịp
nhàng, hiệu quả, đúng pháp luật.
2.2 Mặt tồn tại, hạn chế
Trong thực tế hoạt động, mối quan hệ giữa LS và TP cũng có những thực trạng đáng
tiếc do hai bên chưa có sự phối hợp, tương tác tốt; một số trường hợp còn chưa nhận thức
đầy đủ về vai trò của nhau, dẫn đến chẳng những các quy định của pháp luật tố tụng chưa
được thực hiện nghiêm chỉnh mà còn phát sinh những hiểu lầm, rạn nứt khơng đáng có
trong mối quan hệ giữa LS và TP. Có thể điểm qua một số thực trạng và nguyên nhân của
chúng như sau:
a. Về phía Luật sư
Thực trạng: Nhiều trường hợp LS có thái độ thiếu tơn trọng, đánh giá thấp trình độ
của TP, cá biệt có trường hợp có hành vi ứng xử khơng phù hợp, cực đoan với Thẩm phán

4

Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2020, nhiệm kỳ 2016-2020 và phương hướng, nhiệm
vụ tọng tâm năm 2021 của Tòa án các cấp.

7


như vung tay trước mặt TP5, bỏ về khi xử án6. Thực trạng xấu xí này của đã làm cho một
số TP, CQTHTT phải gửi văn bản đến Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư để yêu
cầu xử lý LS7, gây ảnh hưởng đến hình ảnh chung, thanh danh, uy tín của giới LS trong mắt
các TP.
Nguyên nhân:
Một là, khơng ít LS dù chưa có được những quan điểm pháp lý vững chắc, kỹ năng

trình bày, thuyết phục tốt nhưng lại cho rằng TP không lắng nghe, không tiếp thu ý kiến
nghiệp vụ của mình dẫn đến những bức xúc, phản ứng không đúng mực với TP. Song song
đó là những hạn chế về kỹ năng giao tiếp và phong cách ứng xử nên khi trao đổi, làm việc
với TP thì một số LS khơng tạo được hiệu quả trong giao tiếp, thiếu sự trang trọng, sự tinh
tế cần có.
Hai là, một số LS vẫn cịn định kiến cho rằng nhiều TP thuộc trường hợp “chạy chức
chạy quyền”, khơng được đào tạo chính quy, bài bản nên khơng có đủ trình độ xử án nên
ln mang trong mình tâm lý tiêu cực, thái độ, hành vi thiếu tôn trọng với các TP, ln nghĩ
mình là đúng, là ở “kèo trên” về kiến thức, quan điểm, lập luận so với TP.
Bà là, hoạt động xử lý kỷ luật có liên quan đến hành vi vi phạm của Luật sư cịn
chưa mạnh tay. Các Đồn luật sư cịn du di, thơng cảm cho nhau, chỉ “giơ cao đánh khẽ”8
vì cuộc sống mưu sinh của anh em LS nên nhiều hành vi vi phạm của LS đối với TP vẫn
còn tiếp diễn. Nhiều thế hệ LS đi trước cho rằng thái độ và hành vi tiêu cực của mình đối
với TP có làm cũng khơng sao, hoặc chỉ bị nhắc nhở, bị kỷ luật cũng không nặng lắm nên
vẫn truyền tai nhau, gièm pha những lời lẽ thiếu tôn trọng đối với người tiến hành tố tụng
như TP, làm ảnh hưởng, tạo tâm lý xấu cho lớp đàn em thế hệ LS sau này.
b. Về phía Thẩm phán
Thực trạng: Cơng bằng mà nói, cũng cịn khá nhiều TP giữ tâm lý dè dặt đối với LS,
khơng tơn trọng vai trị của LS và thiếu sự hợp tác, tạo điều kiện tối đa cho LS hành nghề.
Nhiều trường hợp TP viện nhiều lý do trái luật để cản trở LS hoạt động nghề nghiệp như:
không cho LS đọc hồ sơ vụ án9, tiếp cận chứng cứ, tiếp cận đương sự, buộc LS rời phịng
5

Trần Cơng Ly Tao, Luật sư được vung tay khi tranh luận tại tịa?, truy cập ngày 11/09/2021 tại
/>6
Hồng Yến, Luật sư bỏ về giữa chừng, tòa mệt mỏi, truy cập ngày 11/09/2021 tại />7
Nguyễn Thế Phong, Đạo đức nghề nghiệp Luật sư trong quan hệ với khách hàng – Những điểm cần lưu ý, truy
cập ngày 11/09/2021 tại />8
Huy Anh, Xử lý kỷ luật luật sư, không “giơ cao đánh khẽ”, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>9

Vĩnh Hòa, TP Hồ Chí Minh: Thẩm phán bị tố gian dối, cản trở luật sư đọc hồ sơ, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>
8


xử án10 , TP “đuổi” cưỡng chế buộc LS ra khỏi phịng xử án, TP “hành” LS…là tình trạng
đáng báo động về quyền hành nghề LS tại phiên toà bị xâm phạm bởi các TP trong khi LS
chỉ đang thực hiện vai trò đối trọng, “lấy tranh tụng làm khâu đột phá” theo luật định.
Ngun nhân:
Một là, khơng ít TP vẫn cịn nhận thức chưa đúng hoặc có những định kiến cố hữu
về địa vị pháp lý và vai trò của LS. Họ cho rằng LS tham gia tố tụng sẽ gây phức tạp, trở
ngại cho công tác xử án, cản trở việc tiếp cận đương sự, bị can, bị cáo… Thậm chí, ở một
bộ phận nhỏ TP có tâm lý rằng luật sư là kẻ phá bĩnh, gây mất thời gian trong khi TP phải
đang gánh chịu nhiều áp lực bởi tình trạng án quá tải nhưng LS vẫn cứ liên tục tạo rắc rối,
phiền hà, gây phức tạp cho vụ án. Do đó, nhiều TP có tâm lý khó chịu với LS, khơng hợp
tác, gây khó dễ cho LS.
Hai là, thực tế đang tồn tại “án bỏ túi”11 do cơ chế họp liên ngành, báo cáo án, duyệt
án để thống nhất đường lối giải quyết các vụ án trước khi xét xử. Chính điều này dẫn đến
tình trạng nhiều TP rất ngại trong việc trao đổi nghiệp vụ, làm việc thẳng thắn với LS. Hệ
quả là, mọi nỗ lực, tiếng nói, sự trao đổi của LS với TP trong vụ án, là cơ sở quan hệ của
hai bên, đã khơng cịn. Đây khơng chỉ rào cản lớn đối với việc phát triển mối quan hệ giữa
LS và TP mà về lâu dài còn là rào cản chung cho cải cách tư pháp.
c. Về cả hai phía Luật sư và Thẩm phán
Thực trạng:
Một là, mối quan hệ giữa LS và TP có khả năng tồn tại những “xung đột tiềm tàng”:
Trên thực tế, có những vụ việc đáng buồn, rạn nứt lớn trong quan hệ giữa LS và TP khi mà
trước diễn biến của các vụ án nhạy cảm, phức tạp, hay vụ án có đơng Luật sư tham gia, việc
điều hành phiên tòa trở nên căng thẳng, TP có phần cứng rắn, gay gắt hơntạo tâm lý ức chế,
bức xúc cho LS. Hay có trường hợp “Thẩm phán chửi Luật sư bị khùng, còn Luật sư bảo
Thẩm phán tâm thần”12 làm xấu đi hình ảnh của chốn pháp đình. Rõ ràng, giữa LS và TP

hồn tồn có nguy cơ bộc lộ, phát sinh những xung đột không thể tránh khỏi, có thể dẫn
đến cái nhìn thiếu thiện cảm của mỗi bên dành cho nhau dẫn đến những vết hằn sâu trong
mối quan hệ của LS và TP.
Hai là, mối quan hệ câu kết giữa LS và TP trong q trình giải quyết vụ án nhằm
trục lợi bất chính: Một thực trạng đáng buồn cho giới tư pháp là nhiều vụ vi phạm pháp luật
10
Tạp chí Luật Sư Việt Nam, Báo động tình trạng quyền hành nghề luật sư tại phiên toà bị xâm phạm,
/>11
Nguyễn Như Phong, Lạm bàn về “án bỏ túi”, truy cập ngày 13/9/2021 tại />12
Thanh Tùng, Cự cãi thẩm phán, luật sư bị “hành”, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>
9


cho thấy có sự móc nối, câu kết giữa luật sư với thẩm phán để “chạy án”, để “móc túi”
đương sự, khách hàng với số tiền mỗi vụ có thể lên tới hàng tỷ đồng13. Hiện tượng này đang
có xu hướng gia tăng với nhiều tình tiết phức tạp, khi mà hành vi móc nối này có thể tạo
thành đường dây “chạy án” và có khả năng diễn ra ở nhiều cấp tố tụng14.
Nguyên nhân:
Về xung đột trong mối quan hệ giữa LS và TP, có thể thực trạng này xuất phát từ vai
trò đối trọng, giám sát lẫn nhau của LS và TP nhưng lại thiếu đi những cơ chế, cơ hội để
hai bên có thể trao đổi góp ý thẳng thắn cho nhau. Cụ thể, một số trường hợp LS có hành
vi thiếu chuẩn mực thì Tịa Án gửi cơng văn đến Đồn Luật sư nơi LS sinh hoạt để yêu cầu
xử lý LS. Ngược lại, một số LS cũng thực hiện việc khiếu nại, tố cáo các TP khi cho rằng
họ đã có hành vi vi phạm quy tắc đạo đức Thẩm phán và/hoặc pháp luật. Vòng xoay này
cứ lặp đi lặp lại làm xoáy sâu vào mối quan hệ giữa LS và TP. Rõ ràng, hai bên thiếu một
cơ chế để tự gặp mặt, “hòa giải” với nhau như những người đồng nghiệp bằng chính cách
cư xử, kỹ năng giao tiếp của mình để có thể cải thiện, duy trì tình cảm của cả hai phía.
Về sự cấu kết giữa LS và TP, đây là các trường hợp tha hóa về đạo đức, bị chi phối
bởi sức mạnh đồng tiền, bỏ qua nguyên tắc tố tụng, đánh mất quan điểm pháp lý của nghề

nghiệp, nhiều trường hợp cịn là vi phạm pháp luật, làm xói mịn lịng tin của cơng chúng
vào cơ quan pháp luật.
3. Kiến nghị giải pháp cải thiện và nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa Luật
sư với Thẩm phán
Để cải thiện và phát triển hơn nữa mối quan hệ giữa LS với TP thì có thể xem xét
các giải pháp sau:
Một là, cả phía LS và TP cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật, nhất
là pháp luật tố tụng và quy tắc đạo đức, hành nghề của mình. Mỗi bên phải nhận thức rõ về
vai trò, địa vị pháp lý của mình và của nhau để thấy rõ ranh giới về quyền và nghĩa vụ, giữa
cái tôi cá nhân và cái chung tập thể trong hoạt động nghề nghiệp. LS và TP phải đảm bảo,
tạo điều kiện cho nhau hoạt động nghề nghiệp một cách thuận lợi, hỗ trợ lẫn nhau, xây dựng
văn hóa pháp đình lịch sự, chuyên nghiệp và văn minh.
Hai là, mỗi người LS, TP cần nâng cao không chỉ là kỹ năng nghề nghiệp mà còn là
kỹ năng giao tiếp, phong cách hành xử, lối sống, luôn nêu cao tinh thần tôn trọng sự thật
khách quan, luôn nghĩ đến mục tiêu chung của cả hai bên là đấu tranh bảo vệ công bằng, lẽ
13

Dân Việt, Luật sư bị tố cùng thẩm phán "chạy án" tiền tỷ ở Hà Nội nói gì?, truy cập ngày 11/9/2021 tại
/>14
Đăng Trường, Thấy gì qua một số vụ chạy án?, truy cập ngày 13/9/2021 tại />
10


phải. Khi nghĩ đến nhiệm vụ chung như vậy thì mới dễ dàng bỏ qua cho nhau những thiếu
sót, hiểu lầm hay những khúc mắc khơng đáng có trong giao tiếp, trong cư xử để cùng nhau
hướng đến mục tiêu là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Ba là, cơng tác xử lý kỷ luật LS, TP cần phải được thực hiện một cách nghiêm minh
để có những chế tài răn đe cho các trường hợp cực đoan, các trường hợp câu kết giữa LS
và TP để làm tấm gương cho thế hệ LS, TP đàn em sau này biết quý trọng hình ảnh, uy tín,

thanh danh nghề nghiệp.
Bốn là, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các CQTHTT, đặc biệt là phía Tịa Án để tổ
chức những buổi giao lưu, trao đổi về nghiệp vụ, hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao cho LS và TP cũng như những người tiến hành tố tụng khác. Như đã phân tích, mối
quan hệ giữa LS và TP mang dáng dấp của mối quan hệ đồng nghiệp trong công tác pháp
luật. Do vậy, để phát triến mối quan hệ của các bên thì bên cạnh các hoạt động nghề nghiệp
thì cũng phải có những hoạt động kết nối con người, kết nối tình cảm giữa LS và TP. Có
như vậy, khi hành nghề, đứng dưới tư cách là những người đồng nghiệp với nhau, các bên
tự ắt có thái độ tơn trọng, thiện chí cho nhau, biết tạo cho nhau khơng khí hợp tác, cởi mở,
chân tình như những người đồng nghiệp thực thụ.
Năm là, đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng mơ hình đào tạo chung đối với ba chức
danh LS, TP và Kiểm sát viên. Đây là mơ hình đã được triển khai từ năm 2016 theo Đề án
“Xây dựng Học viện Tư pháp thành Trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” theo
Quyết định số 2083/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2543/QĐ-BTP của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp ký và Quyết định số 1401/QĐ-HVTP ban hành Chương trình chi tiết
đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư của Giám đốc Học viện Tư pháp.
Mơ hình này là một bước lớn trong việc thừa nhận mối quan hệ phối hợp, chặt chẽ, gắn bó
giữa LS và TP cùng Kiểm sát viên tạo nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao15 và tạo thành
một thể thống nhất trong khuôn khổ thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.
Hiệu quả của mô hình này sẽ xây dựng cái nhìn khách quan cho LS và TP về vai trò của
mỗi bên, để cả hai đều nhận thức đúng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên và có thể thấu
hiểu, chia sẻ những khó khăn, trở ngại, những thuận lợi của bên cịn lại từ đó có hành vi
ứng xử phù hợp. Quan trọng là, mơ hình này cịn tạo nên sự bình đẳng, cái nhìn tơn trọng,
khơng cịn chuyện gièm pha về chạy chức chạy quyền hay chê khen nhau về trình độ và là
những người đồng môn để sau này thể giữ hịa khí chốn pháp đình nói riêng và thanh danh,
uy tín của giới tư pháp nói chung.
15

Thu Hằng, Đào tạo ba chung: Góp phần tích cực phát triển nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao, truy cập
ngày 15/9/2021 tại />

11


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã tìm hiểu các khái niệm, các quy định pháp luật để có thể cố gắng
đưa ra định nghĩa và làm nổi bật được mối quan hệ giữa LS với TP. Theo đó, đây là mối
quan hệ luật định, có tính đối trọng, giám sát lẫn nhau và về bản chất là những người đồng
ngiệp của nhau trong công tác pháp luật. Nhận thức đúng và đủ về mối quan hệ này là cơ
sở để có thể xây dựng, duy trì và phát triển mối quan hệ giữa LS với TP.
Bài tiểu luận cũng đã đào sâu được những thực trạng tích cực lẫn tiêu cực trong quá
trình trao đổi, tiếp tục làm việc ở cả hai phía LS và TP. Bên cạnh những mặt tích cực là
thành quả của chiến lược cải cách tư pháp, của công tác đào tạo và sự quan tâm của xã hội,
của Nhà nước thì cả hai bên vẫn cịn tồn tại những trường hợp có thái độ thiếu tơn trọng,
đánh giá thấp trình độ, vai trị của nhau, cá biệt là trường hợp có hành vi ứng xử không phù
hợp, cực đoan dành cho nhau. Bên cạnh những tồn tại về mặt chủ quan, còn là các yếu tố
khách quan do tác động của môi trường bên ngồi như thực trạng “án bỏ túi”, cơng tác xử
lý vi phạm, xử lý khiếu nại còn chưa mạnh tay… đã dẫn đến hậu quả cái nhìn thiếu thiện
cảm của mỗi bên dành cho nhau dẫn đến những vết hằn sâu trong mối quan hệ của LS và
TP.
Trong khuôn khổ có hạn, Bài tiểu luận cũng đã đưa ra được một số giải pháp cơ bản
về phía LS và TP cũng như về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chủ quan hai bên, công
tác đào tạo, công tác xử lý kỷ luật. Về cơ bản, trong quá trình tìm ra chân lý, sự bất đồng
nếu có thì chỉ có thể là bất đồng về quan điểm pháp lý chứ không nên và không thể là sự
bất đồng, đối kháng giữa những cá nhân và tổ chức với nhau mà dưới cái nhìn của cơng
chúng thì họ cịn đang được xem là những người đồng nghiệp của nhau trong giới tư pháp.
Chốn pháp đình phải là ngơi nhà chung của những người làm cơng tác pháp luật với khơng
khí làm việc thuận lợi, hài hịa, chân tình. Tất cả các bên tham gia, không chỉ riêng LS hay
TP đều có nghĩa vụ tạo dựng, bảo vệ và nâng cao mối quan hệ với nhau để cùng gìn giữ
truyền thống, hình ảnh, danh dự, uy tín của giới tư pháp và nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm
vụ, sứ mệnh bảo vệ công bằng, lẽ phải, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
./.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.
2.
3.
4.

Bộ luật tố tụng Dân sự 2015.
Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.
Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo
Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13 tháng 12 năm 2019 của Hội đồng Luật sư
tồn quốc).
5. Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014.
6. Bộ Quy tắc đạo đức và Ứng xử của Thẩm phán (Ban hành kèm theo Quyết định số
87/QĐ-HĐTC ngày 04 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm
phán quốc gia).
SÁCH, GIÁO TRÌNH, TÀI LIỆU
7. Học viện Tư pháp (2021), Giáo trình Luật sư và đạo đức nghề luật sư, Nhà xuất bản
Tư pháp.
8. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật,
Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2020, nhiệm kỳ 20162020 và phương hướng, nhiệm vụ tọng tâm năm 2021 của Tòa án các cấp.
BÁO, TẠP CHÍ

10. Trần Cơng Ly Tao, Luật sư được vung tay khi tranh luận tại tịa?, truy cập ngày
11/09/2021tại />11. Hồng Yến, Luật sư bỏ về giữa chừng, tòa mệt mỏi, truy cập ngày 11/09/2021 tại
/>12. Nguyễn Thế Phong, Đạo đức nghề nghiệp Luật sư trong quan hệ với khách hàng –
Những điểm cần lưu ý, truy cập ngày 11/09/2021 tại />13. Huy Anh, Xử lý kỷ luật luật sư, không “giơ cao đánh khẽ”, truy cập ngày 13/9/2021
tại
/>14. Vĩnh Hòa, TP Hồ Chí Minh: Thẩm phán bị tố gian dối, cản trở luật sư đọc hồ sơ,
truy cập ngày 13/9/2021 tại />
13


15. Tạp chí Luật Sư Việt Nam, Báo động tình trạng quyền hành nghề luật sư tại phiên
toà bị xâm phạm, />16. Nguyễn Như Phong, Lạm bàn về “án bỏ túi”, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>17. Thanh Tùng, Cự cãi thẩm phán, luật sư bị “hành”, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>18. Dân Việt, Luật sư bị tố cùng thẩm phán "chạy án" tiền tỷ ở Hà Nội nói gì?, truy cập
ngày 11/9/2021 tại />19. Đăng Trường, Thấy gì qua một số vụ chạy án?, truy cập ngày 13/9/2021 tại
/>20. Thu Hằng, Đào tạo ba chung: Góp phần tích cực phát triển nguồn nhân lực tư pháp
chất lượng cao, truy cập ngày 15/9/2021 tại />
./.

14



×