Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

QUAN NIỆM MARXIST CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VÀ VẬN DỤNG BẢN THÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.52 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH


TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:

QUAN NIỆM MARXIST CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
VÀ VẬN DỤNG BẢN THÂN

Giảng viên hướng dẫn

: Ts. Lê Ngọc Thông

Họ và tên

: Lê Tuấn Kiệt

Mã sinh viên

: 11201992

Lớp học phần

: LLNL1107(121)_38

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC


Phần 1: Giới thiệu đề tài

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Mục đích chọn đề tài

4

3. Đối tượng nghiên cứu

5

4. Phạm vi nghiên cứu

5

5. Phương pháp nghiên cứu

5

Phần 2: Nội dung

6

Chương 1: Quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của gia đình


6

1. Khái niệm gia đình

6

1.1 Định nghĩa về gia đình

6

1.2 Các mối quan hệ cơ bản của gia đình

7

1.2.1 Mối quan hệ cơ bản bên trong gia đình

7

1.2.2 Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội

8

2. Chức năng xã hội cơ bản của gia đình

9

2.1 Chức năng tái sản xuất ra con người

9


2.2 Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình

9

2.3 Chức năng giáo dục

10

2.4 Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm sinh lý tình cảm

10

Chương 2: Sự vận dụng của bản thân qua quan niệm Marxist về chức năng
cơ bản của gia đình

2

11

1. Định hướng vận dụng

11

2. Thực trạng vận dụng

12

2.1 Thành công

12


2.2 Hạn chế

13

2.3 Nguyên nhân

14


3. Đề xuất hướng giải quyết trong tương lai

15

Phần 3: Kết luận

17

Tài liệu tham khảo

18

3


PHẦN 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.

Lý do chọn đề tài
Cùng với sự thay đổi, tiến bộ và phát triển của nền văn minh xã hội, gia đình vẫn


ln được coi là yếu tố then chốt. Không chỉ được coi là tế bào sống quan trọng của xã hội,
hơn hết đây còn là thiết chế cơ bản trong bộ máy cơ cấu tổ chức của xã hội. Chính vì vậy,
gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và bổ trợ cho nhau.
Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay cần nghiên cứu “ Quan niệm Marxist về chức năng cơ
bản của gia đình” . Quá trình biến đổi và phát triển ở mọi mặt về kinh tế xã hội, kỹ thuật,
nông nghiệp, cơng nghệ, … đã có những tác động khơng nhỏ tới các chức năng cơ bản của
gia đình nói chung và mỗi thành viên trong gia đình nói riêng. Xã hội phát triển tạo điều
kiện cho gia đình phát triển và ngược lại. Do đó, sự thay đổi và phát triển của gia đình có
ý nghĩa to lớn đến sự thay đổi và phát triển của xã hội. Liên Hợp quốc đã lấy năm 1994 là
“Năm quốc tế gia đình”; nhiều nước phát triển và đang phát triển trên thế giới cũng nhận
thức rõ rằng: củng cố sự vững chắc của gia đình là nhân tố quan trọng để ổn định, phát triển
xã hội và hình thành, xây dựng các chuẩn mực, giá trị đạo đức, phong tục tập quán, lối sống
văn hóa, giáo dục...
Có thể thấy rằng, gia đình khơng chỉ là vấn đề mang tính dân tộc mà cịn mang tính
thời đại. Trong những năm trở lại đây, vấn đề gia đình ngày càng trở nên cấp thiết, là chủ
đề nghiên cứu không chỉ được giới hàn lâm quan tâm mà cịn là vấn đề các nhà chính trị
gia hết sức chú trọng. Trong thực tế, việc xây dựng, củng cố và phát triển gia đình tạo điều
kiện để gia đình thực hiện tốt các chức năng của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chính
vì vậy, chức năng của gia đình ln là các yếu tố được quan tâm hàng đầu khi xét đến quan
niệm về gia đình và rộng hơn là sự liên hệ, tác động của nó lên xã hội. Các chức năng cơ
bản này đã được nghiên cứu, phát triển từ nhiều công trình khoa học nổi tiếng và ngày
càng được hồn thiện, thay đổi nhằm phù hợp với đối tượng và nền xã hội của riêng nó.
Chức năng cơ bản của gia đình đã được làm rõ trong lý luận quan niệm Marxist và ngày
càng có nhiều thay đổi trong xã hội Việt Nam hiện nay. Quan điểm không chỉ là cơ sở hình
thành, xây dựng, phát triển mà cịn là tiền đề cho rất nhiều cơng trình nghiên cứu, các phát
triển lý luận của các học giả sau này.
Chính vì vậy, bài tiểu luận sẽ thực hiện tìm hiểu trên cơ sở thảo luận và vận dụng
các lý luận quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của Gia đình.
Mục đích chọn đề tài

Việc nghiên cứu đó là cần thiết về cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài là sự
thảo luận về quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của gia đình, cùng với đó là vận dụng
của bản thân về các chức năng của gia đình . Song song, phát hiện ra những điểm còn tồn
tại, các mặt hạn chế cần được giải quyết và nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực
tiếp của chúng. Qua đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp và đề xuất thích hợp.

2.

4


3. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của gia đình và vận dụng bản thân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài được xét trên 2 phương diện về mặt không

gian và thời gian:
Phạm vi khơng gian: gia đình tác giả.
Phạm vi thời gian: kết quả được thu thập từ thông tin trước khi học và thảo
luận về quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của gia đình và quá trình áp dụng
sau học tập và nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp phân tích và tổng hợp các
thơng tin có sẵn, dựa trên nguồn tài liệu, cơ sở khoa học, nghiên cứu thành cơng trước
đó, kết hợp với hiện trạng thực tế.

5


PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM MARXIST VỀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN
CỦA GIA ĐÌNH
1.
1.1

Khái niệm gia đình
Định nghĩa gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, là một tổ chức xã hội được hình thành

từ khá sớm trong lịch sử của lồi người và có vai trị quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba
tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cơ sở hình thành gia đình được dựa trên
hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ
và con cái…). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ
thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng
pháp lý hoặc đạo lý.
Ngày nay, chúng ta có thể bắt gặp cơ số các định nghĩa, khái niệm khác nhau về gia
đình. Cùng với sự biến đổi to lớn của xã hội, gia đình cũng có nhiều chuyển biến trong
chức năng và vai trị của mình. Do vậy, ngày càng phát sinh nhiều quan điểm khác nhau,
gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng nghiên cứu. Điều cấp thiết ở đây là cần phải có quan
điểm chung nhất, giữa các ý kiến trái chiều đó.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung thành
một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và dịng máu,
thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”.
Theo tác giả Levi Strauss: “ Gia đình là một nhóm xã hội học được quy định bởi
3 đặc điểm thường thấy: Hôn nhân, quan hệ hôn nhân, các ràng buộc và trách nhiệm giữa
các thành viên trong gia đình.”
Theo Liên Hợp Quốc: “ Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng cùng sống

chung và có ngân sách chung.”
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình”, Ph.Ăngghen đã chỉ ra các nội dung cơ
bản:
“ Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội đầu tiên, một tế bào xã hội. Sự tồn tại
của gia đình có q trình lịch sử lâu dài, sự vận động, biến đổi của nó về hình thức, quy
mơ, kết cấu, có quan hệ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội mà nguyên nhân
sâu xa là do sự phát triển của chế độ sở hữu.
Thứ hai, gia đình ra đời, tồn tại dựa trên hai cơ sở hệ thống cơ bản: quan hệ hôn
nhân và quan hệ huyết thống. Hai mối quan hệ này có quan hệ mật thiết đến nhau, là cơ sở
để liên kết các thành viên trong gia đình, tạo nên các cơ sở đặc trưng, các chức năng xã hội
6


đặc thù của gia đình. Nhờ đó, gia đình có môi trường quan hệ hoạt động qua lại với xã hội,
vận động phát triển cùng các quan hệ xã hội.
Thứ ba, Cách mạng vô sản là cách mạng xã hội thủ tiêu chế độ để chủ sở hữu tư
nhân sản xuất, xây dựng chế độ chủ sở hữu xã hội đối với tư liệu sản xuất. Do đó, cuộc
cách mạng cũng đồng thời thủ tiêu chế độ hôn nhân, gia đình tư sản, bất bình đẳng nam nữ,
bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, xác lập và xây dựng gia đình mới, dựa
trên cơ sở quan niệm hơn nhân tự do, bình đẳng, tự nguyện.”
Như vậy, có thể thu được khái niệm cô đọng nhất về gia đình: “Gia đình là một hình
thức cộng đồng xã hội đặc biê ̣t, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ
sở hôn nhân, quan hê ̣ huyết thống và quan hê ̣ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về
quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.”, theo giáo trình chủ nghĩa xã hội
khoa học
Trên thực tế, lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các thành viên có quan hệ trực huyết với
nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng các con, cháu (gia đình mẫu hệ). Về sau, số lượng
này ngày càng thay đổi, có thể cả những người thân thích có cùng quan hệ họ hàng huyết
thống. Theo quy mơ gia đình, chúng ta có thể thấy quy mơ ngày càng giảm dần. Từ những
gia đình sống đơng đúc, cùng sinh hoạt với nhau có thể lên tới cả chục cả trăm người thì

ngày càng được thiểu số hóa dần chỉ còn từ 3-5 người. Việc này xuất phát từ q trình phát
triển xã hội địi hỏi quy mơ gia đình dần thay đổi để phù hợp với cuộc sống. Hơn hết, đây
cũng là tiền đề cho những gia đình hạt nhân ra đời và nở rộ như hiện nay. Đây là kết cấu
gia đình hiện đại, chỉ gồm có bố mẹ và con cái. Một gia đình có thể chỉ bao gồm từ 1-3
người.
1.2 Các mối quan hệ cơ bản của gia đình
1.2.1 Mối quan hệ cơ bản bên trong gia đình
Thứ nhất, gia đình hình thành và tồn tại dựa trên quan hệ hôn nhân.
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Luật Hơn nhân gia đình năm 2014, khái niệm hôn nhân được
hiểu là: “ Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn.” Đây là mối quan hệ chủ
yếu mang tính giao, giữa người nam và người nữ khi đã đến tuổi trưởng thành.
Thứ hai, gia đình hình thành và tồn tại dựa trên quan hệ huyết thống.
Đây là mối quan hệ nảy sinh trực tiếp từ mối quan hệ hôn nhân, chỉ những người có
cùng dịng máu. Cùng với mối quan hệ hơn nhân, đây là hai yếu tố cơ bản hình thành nên
gia đình.
Thứ ba, gia đình hình thành và tồn tại dựa trên quan hệ chung sống
Mối quan hệ này nảy sinh trong quá trình sinh hoạt giữa các thành viên, mục tiêu
nhằm nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau, bổ sung cho nhau về cả tình cảm và vật chất; được thể
hiện qua mối quan hệ cơ bản vợ chồng, con cái và các mối quan hệ khác như cháu, chắt với
ơng, bà, cơ, dì, chú, bác, ...
7


Thứ tư, gia đình hình thành và tồn tại dựa trên quan hệ nuôi dưỡng
Việc chung sống, sinh hoạt trong một gia đình sẽ phát sinh nên sự chăm sóc và ni
dưỡng giữa các thành viên trong gia đình. Đây vừa là nghĩa vụ, cũng như là trách nhiệm
của mỗi thành viên trong gia đình. Ngày nay, mối quan hệ này còn được mở rộng khi luật
pháp Việt Nam cũng như thế giới thừa nhận vai trò của mẹ đỡ đầu hoặc cha đỡ đầu của mỗi
đứa trẻ. Hình thức này được xuất phát từ nhu cầu được nuôi dưỡng và chăm sóc được cơng
nhận trong mỗi gia đình.

1.2.2 Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội
Được coi là nhân tố quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội,
do vậy gia đình đóng vai trị rất quan trọng trong cơng cuộc xây dựng này. Gia đình là tế
bào sống của xã hội, là đơn vị nhỏ nhất cấu thành nên xã hội. Mỗi người đều xuất phát từ
đơn vị là gia đình, do vậy phải có gia đình thì mới có thể tái tạo ra con người, bước vào
công cuộc phát triển và xây dựng xã hội. Chính vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng
gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội cịn phụ thuộc vào bản chất
của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự
bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của
gia đình đối với xã hội.
Gia đình là tở ấm mang lại các giá tri ̣hạnh phúc
Quan hệ thiêng liêng, ấm áp mang tính ruột thịt máu mủ chỉ có xuất phát từ nền tảng
là gia đình. Mối quan hệ này được sản sinh trong gia đình: mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái, mối quan hệ giữa vợ và chồng. Gia đình được coi là tổ ấm hạnh phúc, vun đắp và là cơ
sở của những cảm xúc sơ khai trong mỗi người, mang lại các giá trị hạnh phúc cho bản thân
và xã hội.
Gia đình là cầ u nối giữa cá nhân và xã hợi
Gia đình là cơ sở tiền đề tạo nên tính cách và cách hành xử của mỗi con người. Mỗi
cá nhân trong xã hội đều bắt đầu từ đơn vị là gia đình. Gia đình có tốt, ni dạy, giáo dục
đúng đắn với mỗi cá nhân thì mới có thể tồn tại và phát triển được một xã hội phồn thịnh.
Có thể thấy, đây chính là bước đệm, là cầu nối quan trọng của mỗi con người khi bước ra
ngồi xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt
cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”. Vì vậy muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây
dựng gia đình.
Như vậy, giữa cá nhân- gia đình- xã hội có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau và cùng nhau phát triển.


8


Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia đình vẫn
có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì gia đình và quan hệ gia đình cịn bị chi phối bởi
các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … Vì vậy, mặc dù xã hội có nhưng
thay đổi nhưng một số gia đình vẫn lưu giữ những truyền thống của gia đình.
2.

Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình

Chức năng tái sản xuất ra con người
Ln được coi là chức năng quan trọng nhất, thiêng liêng nhất của gia đình, khơng
chỉ vậy đây cịn là chức năng chun biệt mà chỉ gia đình mới có, đảm bảo sự trường tồn

2.1

của thể giới lồi người. Gia đình sẽ sản sinh ra con người- chủ thể quan trọng của xã hội,
là tiền đề cho những công dân tốt, những lao động giỏi, những nhà trí thức tài ba, … đóng
góp khơng nhỏ cho cơng cuộc xây dựng và phát triển xã hội.
Tuy nhiên, việc sản xuất con người khơng chỉ phụ thuộc và gia đình mà hơn hết cần
phải đáp ứng với trình độ phát triển dân cư, xã hội và kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc. Nhằm đáp ứng các chức năng cơ bản còn lại của gia đình và tác động khơng nhỏ đến
đời sống kinh tế- chính trị- văn hóa- giáo dục, chức năng này cần phải được kiểm sốt và
có những chính sách riêng biệt, đảm bảo dân số luôn ổn định.
Chức năng kinh tế và tở chức đời sống gia đình
Chức năng này bao gồm hai phương diện cơ bản đó là: hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các yêu cầu của mỗi thành viên của gia đình.

2.2


Kinh tế gia đình đóng vai trị chủ chốt trong nền kinh tế xã hội, nhằm đóng góp cũng như
phát huy tối đa các tiềm lực về vốn, sức lao động, lao động, … phát triển cho kinh tế gia
đình nói riêng và xã hội nói chung.
Cho đến ngày nay, kinh tế gia đình đã và đang được xem là một đơn vị kinh tế tự
chủ. Cùng với sự phát triển của xã hội chủ nghĩa, song song với đó là q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế nhiều thành phần ngày càng được áp dụng và đề
cao. Kinh tế gia đình sẽ tác động không nhỏ tới sự phát triển này, địi hỏi Đảng và Nhà
nước cần có những chính sách phù hợp về kinh tế, xã hội nhằm tạo mọi điều kiện cho sự
phát triển của nền kinh tế gia đình
Chức năng kinh tế là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Điều kiện kinh
tế gia đình có tốt thì mới đủ tiềm lực cho q trình ni dạy và giáo dục. Cùng với đó, chất
lượng đời sống con người được cải thiện, chất lượng xã hội ngày càng được nâng cao.
Chức năng giáo dục
Về giáo dục, đây là một phạm trù rộng lớn không chỉ bao gồm các khía cạnh về tri
thức, đạo đức, lối sống, ... mà còn bảo gồm cả về nhân cách cũng như yếu tố về thẩm mỹ,
vẻ đẹp nhân cách, ... Bên cạnh đó, các phương pháp giáo dục cũng được đề cập về quan
tâm. Trong phạm vi gia đình, các hình thức này chỉ gói gọn ở phương pháp nêu gương, các

2.3

9


hình thức giảng giải, góp ý, thuyết phục, truyền thụ lối sống, gia phong, thuần phong mỹ
tục mang tính kinh nghiệm và đúc rút.
Giáo dục gia đình ở đây trong yếu tố nội hàm cịn có cả tự giáo dục. Các chủ thể
của quá trình này hầu hết đều là ông bà, bố mẹ, anh chị, cô dì chú bác, … những người đi
trước có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy được những bài học bổ ích truyền
lại cho con cháu sau này.

Giáo dục gia đình là thành tố của nền giáo dục xã hội. Bên cạnh sự giáo dục đến từ
nhà trường và xã hội, giáo dục gia đình cũng có những đóng góp, bổ sung khơng nhỏ trong
q trình ni dạy, phát triển kiến thức nền tảng cho mỗi cá nhân trong xã hội. Dù giáo dục
xã hội đóng vai trị ngày càng quan trọng, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo
dục gia đình mang lại hiệu quả lớn khơng thể thay thế được.
Chức năng thõa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm
Đây là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này kết hợp với
cách chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc.

2.4

Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng mệt mỏi về
thể xác và tâm hồn trong lao động và cơng tác … thì mơi trường gia đình là nơi giải quyết
có hiệu quả nhất.
Trong gia đình, mọi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng
trên, trong đó người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ đảm nhận thiên chức
khơng thể thay thế đươc. Vì vậy, việc giải phóng phụ nữ được coi là mục tiêu quan trọng
của cách mạng chủ nghĩa xã hội, cần phải bắt đầu từ gia đình.
Như vậy, gia đình, thơng qua việc thực hiện các chức năng vốn có của mình, có vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Các chức năng này có quan hệ mật thiết
với nhau, tác động lẫn nhau. Cần tránh tư tưởng coi trọng chức năng này coi nhẹ chức năng
kia. Mọi quan điểm tuyệt đối hóa, đề cao quá hay phủ nhận, hạ thấp vai trị của gia đình
đều là sai lầm.

10


CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA BẢN THÂN
QUA QUAN NIỆM MARXIST VỀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN
CỦA GIA ĐÌNH

Giới thiệu về bản thân
Tên em là: Lê Tuấn Kiệt
Sinh viên khóa 62 - Chuyên ngành Quản trị Kinh Doanh.
- Khoa Quản Trị Kinh Doanh.
- Trường đại học Kinh tế Quốc dân.
Sinh ngày: 16 tháng 01 năm 2002 tại Nam Định.
Thế mạnh: thân thiện, tự tin trước đám đông; ham học hỏi và sự cầu tiến cao.
Điểm yếu: quá cầu toàn và khắt khe trong công việc.
Công việc hiện nay: sinh viên và các việc làm bán thời gian khác
Nhận định của bản thân trước khi tìm hiểu “Quan niệm Marxist về chức năng
cơ bản của gia đình”.
Là 1 sinh viên thuộc trường đào tạo khối ngành về kinh tế, bản thân em ln hiểu
rõ tầm quan trọng của gia đình trong nền kinh tế của xã hội. Bên cạnh đó, em cũng biết
rằng gia đình là tế bào quan trọng của xã hội, với chức năng cơ bản là sản xuất và ni
dưỡng con người. Song, đó chỉ là những nhận thức cịn hạn chế, chưa có những cái nhìn
tồn diện cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1. Định hướng vận dụng
Sau quá trình học tập và tìm hiểu về “Quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của
gia đình”, so sánh và áp dụng với thể chế gia đình Việt Nam nói chung và gia đình bản thân
em nói riêng, em nhận thấy trong đó có những thành cơng và hạn chế:
Thành cơng
Bản thân em cũng như gia đình mình vẫn đang sinh sống về cơ bản tương thích với
các chức năng theo quan niệm của Marxist. Quan niệm vẫn là bước tiền đề quan trọng
không chỉ trong các lý luận mang tính khoa học mà cịn cả trong đời sống gia đình. Trước
mắt, quan niệm vẫn đảm bảo các yếu tố cơ bản. Đối chiếu với gia đình và bản thân em, em
thấy rằng các chức năng cơ bản của gia đình theo quan điểm lý luận Marxist có những
thành cơng nhất định: thành cơng trong chức năng sản xuất ra con người, thành công trong
chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình.
Hạn chế
Mặc dù vậy, đối với đời sống hiện nay và cụ thể hơn là gia đình và bản thân em, các

chức năng này vẫn thể hiện nhiều mặt hạn chế. Mặc dù có những thành cơng trong chức
năng sản xuất ra con người nhưng song song với đó cũng vẫn tồn tại các mặt hạn chế của

11


chức năng này. Bên cạnh đó, chức năng giáo dục và chức năng thỏa mãn các nhu cầu về
tâm sinh lý tình cảm cũng có những nét hạn chế.
Đinh
̣ hướng vận dụng
Do vậy cần vận dụng những thành công và khắc phục các hạn chế đó theo hướng
dưới đây:
Cùng với các thành viên trong gia đình xem xét các mặt còn hạn chế và đưa ra các
thay đổi của bản thân.
Đây là cơng việc hết sức quan trọng, chính vì vậy cần phải có sự hợp tác cùng thay
đổi và phát triển của toàn bộ các thành viên trong gia đình. Bởi lẽ mỗi người đều liên quan
đến nhau, đều là một mắt xích của gia đình và xã hội. Kết quả có thành cơng hay khơng
phụ thuộc một phần khơng nhỏ vào chính sự thay đổi của mỗi người. Việc tự kiểm điểm là
cần thiết và tự giác phát triển, sửa đổi lại càng quan trọng hơn.
Phát huy các mặt thành cơng hiê ̣n có.
Khơng chỉ thay đổi mà gia đình cịn cần duy trì các nét truyền thống, văn hóa, giá
trị đúng đắn hiện có. Khơng nên thay đổi quá nhiều gây ra sự thiếu hụt, đánh mất giá trị
văn hóa của gia đình và bản sắc dân tộc.
Tìm hiểu cách xây dựng và học hỏi thơng qua internet, sách báo.
Ngày nay, các trang thông tin điện tử rất nhiều các thông tin hữu hiệu mà chúng ta
cần khai thác và học hỏi. Mặc dù vậy, đây được coi là con dao hai lưỡi, đòi hỏi bản thân
em cũng như gia đình mình cần tham khảo có chọn lọc và phù hợp với tính chất gia đình
mình.
Thực trạng vận dụng bản thân
Qua thời gian biết tới và vận dụng Quan niệm Marxist về chức năng cơ bản của gia

đình, em đánh giá q trình vận dụng đó như sau:

2.

2.1

Thành cơng
Vai trị người phụ nữ trong gia đình có nhiều thay đổ i
Mặc dù sống ở nông thôn, nơi mà những nét truyền thống còn lưu truyền, tồn đọng
khá rõ nét, tuy nhiên trong gia đình em, vai trị của người phụ nữ được đặt ngang với người
đàn ông. Thay vì sống theo nếp sống cổ hủ- người phụ nữ chỉ thực hiện chức năng sinh sản,
giáo dục con cái, chăm lo đời sống gia đình và lo lắng cho chồng, không xuất hiện trong
công tác xây dựng kinh tế và tham gia vào cơng tác xã hội, thì nay, đối với gia đình em,
các thành viên nữ trong gia đình đều có tiếng nói và tham gia vào công tác xã hội.
Bản thân em luôn tôn trọng ý kiến và quyết định của mẹ và chị gái trong các cơng
tác của gia đình. Hơn hết, mẹ em cũng là một trong hai trụ cột kinh tế của gia đình, cùng
với bố em tham gia vào các cơng tác đời sống, kinh tế, chính trị xã hội. Điều này được thể
hiện rõ ràng khi mẹ em là người tham gia vào quá trình kinh tế, tạo ra của cải vật chất
trong gia
12


đình. Trong các vấn đề quan trọng, mang tính quyết định, bố em luôn tham khảo, lắng nghe
và tôn trọng các quyết định, ý kiến không chỉ của mẹ em mà của tất cả các thành viên trong
gia đình.
Kinh tế và tiêu dùng gia đình có nhiều nét khởi sắc
Sự biến đổi về hình thái, các chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình và vai trị của người phụ nữ trong gia đình…đã làm cho gia đình em có điều kiện phát
triển kinh tế, trở thành một thực thể ngày càng hoàn thiện, năng động và phù hợp với những
điều kiện kinh tế - xã hội.

Kinh tế gia đình giờ đây khơng cịn là gánh nặng đặt lên vai người trụ cột gia đình
nữa mà bản thân em cũng tham gia đóng góp vào cơng cuộc này. Chức năng kinh tế không
chỉ là ở những người nuôi dưỡng, các bậc phụ huynh hay là người đàn ông theo quan niệm
truyền thống Việt Nam mà còn hiện diện cả ở vị trí của con cái. Việc đi làm thêm cũng là
cách để bản thân em học hỏi cũng như làm quen với công việc sau này.
Kinh tế cho việc ni dạy con cái khơng cịn đặt nặng lên vai người bố giống như
quan niệm truyền thống. Hiện nay, đối với gia đình em, cả bố và mẹ đều tham gia vào công
tác nuôi dạy con cái, chi tiêu trong gia đình. Mọi vấn đề về tiếng nói và tiền bạc đều bình
đẳng, có ý nghĩa và những đóng góp tương đương với nhau.
2.2

Hạn chế
Lựa chọn giới tính cho con
Mặc dù ghi nhận những thành công trong sự thay đổi của vai trị người phụ nữ nhưng

đâu đó vì sống trong mơi trường đời sống nơng thơn nên vấn đề sinh con trai là một yếu tố
quan trọng mà hầu hết mọi gia đình đều quan tâm. Ở gia đình em, việc bố mẹ sinh thêm em
trai em là con thứ ba ở khoảng cách cũng như độ tuổi khá lớn là minh chứng điển hình cho
điều này. Việc bố mẹ phải cố sinh thêm con trai do sức ép từ phía gia đình ảnh hưởng
khơng tốt đến sức khỏe khơng chỉ của mẹ em mà cịn ở bản thân em trai của em khi sinh
ra. Có thể do ý kiến của ơng bà rằng một mình em là con trai trong gia đình vẫn chưa đủ
để quyết định các vấn đề quan trọng sau này như cỗ bàn, cúng giỗ,...Nên rất cần một em
trai để hai anh em cùng bàn bạc còn ý kiến của con, cháu gái dường như không được xem
trọng
Hơn hết, trong khoảng thời gian mẹ em mang thai và sinh em trai em là q trình
Đảng và nhà nước đang xây dựng chính sách “ Mỗi gia đình chỉ sinh hai con”. Việc sinh
con thứ ba không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe mà cịn ảnh hưởng trực tiếp tới cơng tác của
bố mẹ em. Hậu quả của việc này đối với bố mẹ là rất lớn khi cả hai đều phải nhận hình phạt
trong cơ quan cơng tác và khai trừ ra khỏi Đảng.
Quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo

Cuộc sống của xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh
tế, ở một góc độ nào đó đã phá vỡ những nề nếp và sinh hoạt gia đình vốn có. Nhịp sống
hối hả với những vịng quay của cơng việc, học hành khiến những bữa cơm gia đình hiếm
13


khi đơng đủ. Do tính chất cơng việc và thời gian bận rộn, bố mẹ em hầu như dần phó mặc
việc giáo dục em trai em cho nhà trường. Nếu như ngày bé, em được học các kiến thức
đồng thời ở cả nhà trường lẫn bố mẹ, thì hiện nay đối với em trai em việc đó khơng cịn
nữa. Việc sống trong gia đình hạt nhân- xu hướng gia đình hiện nay khiến cho bản thân
chúng em khơng có q nhiều tình cảm đối với ơng bà và các anh em họ hàng. Cùng với
đó, việc khơng sinh sống cùng nhau kết hợp với quỹ thời gian không cho phép đã khiến
mối quan hệ ngày càng trở nên xa cách.
Điển hình như việc một năm chỉ có thể gặp mặt ông bà khoảng đôi ba lần hay lễ tết
khiến cho tình cảm giữa ơng bà và các cháu có phần khơng được ấm áp như trước. Song
song với đó là sự xa lạ, lạnh nhạt giữa các anh, chị, em họ hàng và cơ, dì, chú, bác.
Giáo dục gia đình được chú trọng nhưng chưa chuyên tâm
Nếu như trước đây, bố mẹ tham gia vào công tác giáo dục, dạy dỗ cho em thì bây
giờ đối em trai em, việc này đã khơng cịn nữa. Bố mẹ đã hồn tồn phó mặc cơng việc này
cho nhà trường, giáo viên và các trung tâm học thêm. Việc này vơ hình chung khiến đứa
trẻ sẽ bị bão hòa trước quá nhiều các nguồn thông tin, gây nên mệt mỏi, chán nản trước
việc phải đến trường. Kéo theo đó, hệ lụy là bố mẹ sẽ khơng thể theo sát được q trình
học tập cũng như nhận thức của con, việc tiếp thu quá nhiều kiến thức có thể sẽ khiến nhận
thức có phần sai lệch nếu không được chỉ dẫn tận tâm và sự tình cảm, ân cần từ bố mẹ.
Bên cạnh đó, nền tảng giáo dục gia đình là rất quan trọng, khơng chỉ ảnh hưởng đến
kiến thức mà cịn ảnh hưởng đến hành vi của đứa trẻ sau này. Điển hình như việc bố mẹ
bận bịu với công việc, nhà trường chạy đua với điểm số khiến cho bản thân em trai em cảm
thấy rất mệt mỏi cũng như không cảm thấy thoải mái trong việc học. Áp lực thành tích và
khối lượng kiến thức lớn có thể khiến đứa trẻ khơng cịn hứng thú với việc đến trường, sợ
hãi khi đến trường. Việc giáo dục kỹ năng, thái độ hay kiến thức là rất quan trọng nhưng

cần phải đi kèm với sự thấu hiểu và lắng nghe tận tâm
2.3

Nguyên nhân
Quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đã mang lại cho xã hội Việt Nam những
tác động và thay đổi khơng chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cịn cả trên lĩnh vực văn hóa - xã
hội. Gia đình - đơn vị cấu thành cơ bản của xã hội tất yếu sẽ có những biến động, những
đổi thay trên nhiều khía cạnh. Là một trong số các gia đình trong xã hội, gia đình em cũng
có những ảnh hưởng trong tư duy, lối sống của từng thành viên. Đó là sự biến đổi mang
tính tồn diện cả về hình thái, các chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình và vai trị của người phụ nữ trong gia đình…
Với những thực trạng trên, em đã nghiêm túc tìm hiểu và suy ngẫm tìm ra được
những nguyên nhân cơ bản sau:
Ảnh hưởng bởi tư duy lạc hậu nông thôn

14


Có thể sẽ hơi quá khi nói rằng tư duy về đời sống gia đình nơng thơn cịn lạc hậu,
nhưng thực trạng của gia đình em kể trên là minh chứng rõ ràng nhất cho điều này. Việc bị
ảnh hưởng bởi lời lẽ hàng xóm, dân cư và anh, chị em dịng tộc vơ hình chung khiến việc
sinh con trai của bố mẹ em trở thành một phần gánh nặng. Không chỉ vậy, tư tưởng truyền
thống lạc hậu: người phụ nữ không cần học quá nhiều, chỉ cần lo lắng cho chồng con và
gia đình bước đầu đã từng cản trở cơng việc của mẹ em kéo theo đó là ảnh hưởng quá
trình học tập của bản thân em và chị gái. Đây là một nguyên nhân không quá xa lạ đối với
những gia đình đang dần muốn chuyển mình, thay đổi từ một gia đình truyền thống sang
mơ hình của gia đình hiện đại.
Bố mẹ quá quan tâm đến cơng việc, thiếu thời gian và tình cảm dành cho con
Việc chỉ gặp nhau vào buổi tối sau một ngày làm việc mệt mỏi, căng thẳng khiến
cho bố mẹ không còn muốn dành thời gian chơi đùa bên các con. Tình cảm gia đình cũng

dần trở nên lỏng lẻo khi mà thời gian lớn bố mẹ đều làm việc ở cơ quan và con cái thì ở
trường học và các trung tâm. Có thể thấy rằng, nếu như ngày bé em được bố mẹ quan tâm
nhiều hơn thì đối với em trai em điều này khơng cịn nữa. Mặc dù đứa trẻ sẽ có thể sống tự
lập và trưởng thành sớm hơn nhưng sự quan tâm từ bố mẹ là điều mà ai cũng mong muốn.
Lối sống gia đình hạt nhân
Phát triển theo xu thế hiện đại của xã hội, mơ hình gia đình hạt nhân- chỉ có bố mẹ
và con cái ngày càng nhiều. Và gia đình em là một trong số đó. Tuy nhiên điều này đã làm
cho chúng em khơng cịn tình cảm nhiều với ơng bà và người thân như trước nữa.
3. Đề xuất hướng giải quyết trong tương lai
Sau khi hiểu rõ về thực trạng và nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó, em dự kiến các
hướng giải quyết trong thời gian tới như sau:
Một là, tăng cường hoạt động tuyên truyền, truyền thông về bình đẳng giới.
Tuyên truyền, phổ biến ở địa phương và ngay trong gia đình họ hàng về vấn đề bình
đẳng giới, vấn đề quyền của phụ nữ và tư tưởng sinh con trai- trọng nam khinh nữ. Qua đó,
hướng phụ nữ tới những giá trị được tơn trọng, được bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe và giáo dục, được tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc, đồng thời đóng góp
ngày càng nhiều cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...
Hơn hết, đây cũng là yếu tố tiên quyết trong công cuộc giảm thiểu sự mất cân bằng
giới tính khi sinh. Việc các gia đình khơng cịn giữ quan điểm trọng nam khinh nữ sẽ tác
động lớn đến quá trình lựa chọn giới tính cho con trẻ. Một số giải pháp cũng đã được đưa
ra trước đó như hạn chế siêu âm giới tính thai nhi nhưng cũng khơng mang lại nhiều kết
quả khả quan. Bởi lẽ, đây là yếu tố xuất phát từ quan điểm cá nhân, lối mòn suy nghĩ ăn
sâu trong nhiều bộ phận gia đình Việt Nam. Chỉ thay đổi quan điểm trong tiềm thức thì mới
hiện hữu ra hành động.
Hai là, nâng cao tình cảm giữa các thành viên.
15


Bố mẹ cần thay đổi quan niệm của mình trong vấn đề giáo dục con cái. Không nên
chỉ quan tâm vào cơng tác kinh tế mà thiếu vắng đi tình cảm gia đình. Bố mẹ có thể tổ chức

những ngày nghỉ cuối tuần đi chơi, đi cắm trại cùng các con, tạo ra khoảng thời gian thoải
mái, ấm cúng bên gia đình. Qua đó, bố mẹ có thể dễ dàng lắng nghe con hơn, hiểu được
những tâm sự cũng như khó khăn trong cuộc sống, trong cơng việc học tập của con. Bố mẹ
cần dành thời gian nhiều hơn cho việc giáo dục con ở nhà. Khơng chỉ ở phía bố mẹ, các
con cũng cần mở lòng với bố mẹ, tâm sự với bố mẹ nhiều hơn
Bên cạnh đó, cần có những buổi về thăm ơng bà cũng như họ hàng giúp nâng cao
tình cảm gia đình, giảm bớt khoảng cách giữa các thế hệ, gây ra sự xa cách ngay trong
chính các thành viên thân cận trong một gia đình.
Ba là, đảm bảo xây dựng gia đình phù hợp với chủ trương của Đảng và nhà nước.
Đây là yếu tố thiết yếu cần có khơng chỉ của bản thân em, gia đình em mà cịn là
gia đình Việt Nam nói chung. Dù phát triển theo hướng nào nhưng vẫn luôn phải đảm bảo
phù hợp với đường lối của Đảng và nhà nước, tránh gây ra những sai lệch, hiểu lầm khơng
đáng có giữa nhà nước và cá nhân trong gia đình, xã hội.

16


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Có thể thấy, gia đình là tế bào của xã hội, là chủ thể có những tác động nhất định,
đáng kể và quan trọng tới việc xây dựng và phát triển của toàn xã hội. Mọi thay đổi của xã
hội đều tác động tới chức năng, vai trị của gia đình và ngược lại. Trong thời kỳ hội nhập,
phát triển như hiện nay thì đây lại càng là vấn đề cấp thiết mà các nhà quản lý, các cấp bộ
ngành cần quan tâm.
Cùng với những nghiên cứu, quan niệm Marxist, gia đình nói chung và cơ cấu gia
đình Việt Nam nói riêng vẫn tiếp tục duy trì, phát triển theo tiền đề sẵn có và ngày càng
chuyển mình để phù hợp với nhu cầu đời sống của con người và xã hội. Trong thời kì cơng
nghệ 4.0, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã mang lại cơ hội lớn gia đình
Việt Nam thay phát triển, cá nhân thành viên gia đình và mọi người trong tồn xã hội cần
phải xem xét và nhìn nhận vai trị của mình, chức năng của mình trong gia đình. Sự biến
đổi của các lĩnh vực trong hệ giá trị gia đình hiện nay là khơng đồng đều. Trong khi các

giá trị về kinh tế - vật chất có sự biến đổi khá triệt để, thì các giá trị trong quan hệ giữa
người với người và các giá trị về tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng lại biến đổi dần dần, tiệm
tiến. Nhìn chung, các giá trị có nguồn gốc bản địa có sức sống trường tồn hơn so với các
giá trị được vay mượn từ bên ngoài. Cũng như vậy, các giá trị sinh tồn, bảo đảm sự sống
cịn của gia đình được ưu tiên lựa chọn nhiều hơn so với các giá trị tự thể hiện, các giá trị
nâng cao chất lượng cuộc sống. Bên cạnh đó, sự vận hành và biến đổi hệ giá trị gia đình
cho thấy văn hóa gia đình Việt Nam từ trong lịch sử cho đến hiện nay là văn hóa hội nhập
- hội nhập của văn hóa bản địa thuộc cơ tầng Đơng Nam Á với văn hóa Phật giáo, văn hóa
Nho giáo, văn hóa phương Tây và ngày nay là văn hóa tồn cầu. Điều đáng nói là qua
những lần hội nhập như vậy, cha ông chúng ta đã không ngừng tiếp thu các yếu tố, các giá
trị mới để làm giàu cho chính mình, làm cho bản sắc gia đình Việt Nam khơng phải “nhất
thành bất biến”, mà ln đổi mới và phát triển.
Từ đó, chúng em nhận thấy rằng việc xem xét và xây dựng chức năng gia đình sao
cho phù hợp, hiện đại mà vẫn truyền thống, hội nhập mà vẫn bảo tồn văn hóa là vấn đề hết
sức cấp thiết. Nhưng đồng thời, tiềm ẩn trong đó là những khó khăn, thách thức, các hạn
chế, sai lệch trong tư tưởng cần được nhìn nhận giải quyết. Như lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh
đã từng nói: “ Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt.”

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ giáo dục và đào tạo.
2. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà
Nội
3. Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Viê ̣t Nam, Nhà xuất bản
KHXH, Hà Nội.
4. Gia đình Viê ̣t Nam trong q trình cơng nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa đất nước, Báo

điện tử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
5. Những biến đổi của gia đình Viê ̣t Nam hiê ̣n nay và một số khuyến nghị chính sách,
Tạp chí cộng sản.
6. “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước” (1884), Ph. Ăngghen.
7. “Lý thuyết nhân loại học” (1958), Claude Lévi-Strauss.
8. Theo Liên hợp quốc, định nghĩa về gia đình.
9. Theo từ điển Tiếng Việt, định nghĩa về gia đình.
10. Quốc hội số 52/2014/QH13, Luật Hơn nhân và Gia đình, ban hành ngày 19 tháng 6
năm 2014.

18



×