TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------
Nguyễn Minh Nghi – 1954010137 – 010100510812
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 1945 – 1946 VÀ SỰ VẬN DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
BIỂN ĐÔNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Quế
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
3
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1946
4
1.1. Bối cảnh lịch sử trong giai đoạn 1945 – 1946......................................................4
1.1.1. Tình hình thế giới trong giai đoạn 1945 – 1946............................................4
1.1.2. Tình hình trong nước giai đoạn 1945 – 1946................................................4
1.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946.................................6
1.2.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại................................................................6
1.2.2. Lựa chọn chính sách đối ngoại.....................................................................7
1.3. Triển khai chính sách đối ngoại...........................................................................8
1.3.1. Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch.......................................8
1.3.2. Chính sách đối ngoại với Pháp.....................................................................9
1.3.3. Chính sách đối ngoại với một số quốc gia khác..........................................11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1945 – 1946 ĐỂ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐƠNG HIỆN NAY
12
2.1. Tình hình biển Đơng hiện nay...........................................................................12
2.2. Vận dụng đường lối đối ngoại của Đảng ta trong giai đoạn 1945 – 1946 và vấn
đề giải quyết biển Đông hiện nay..............................................................................13
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa mới thành lập, chủ tịch Hồ
Chí Minh sớm thấy vai trị vơ cùng quan trọng của mặt trận Ngoại giao. Đồng
thời Người cũng nhìn nhận chính xác thánh thức to lớn mà nền Ngoại giao non
trẻ phải đối mặt vào giai đoạn năm 1945 – 1946. Do vậy, Người đã đích thân lãnh trách
nhiệm Bộ trưởng bộ Ngoại giao đầu tiên.
Dưới ách áp bức bóc lột “hai trịng” của cả thực dân Pháp và phát xít
Nhật, dân ta đói dốt, tình hình xã hội rối ren, Chính phủ mới chỉ nắm một quốc
khố trống rỗng. Nạn ngoại xâm và nội phản lăm le đạp đổ thành quả Cách mạng.
Thực tế đất nước khó khăn như vậy phản chiếu qua lăng kính chủ quan của
những nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ cộng hòa như thế nào rồi mới đến được
những chính sách đối ngoại hợp lý. Bác và các vị lãnh đạo trong Chính phủ biết
rằng vào thời điểm này không thể lấy sức mạnh quân sự mà chống giặc, mà vũ
khí hiệu quả nhất của chúng ta khơng gì khác chính là vũ khí Ngoại giao. Với
mục đích cao nhất trong giai đoạn này là bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước và
sự tồn tại của Nhà nước non trẻ, Bác cùng Chính phủ đã đề ra chính sách đối
ngoại linh hoạt, mềm dẻo, khéo léo để phân hóa kẻ thù, đồng thời kéo dài thời
gian hịa bình để tồn dân tộc củng cố lực lượng chuẩn bị cho một cuộc kháng
chiến chống Pháp khó tránh khỏi.
Vì vậy để hiểu rõ hơn về vấn đề này em chọn đề tài “ Đường lối đối ngoại của
Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946 và sự vận dụng để giải quyết vấn đề
biển Đông hiện nay” nhằm củng cố kiến thức học phần Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
3
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1946
1.1. Bối cảnh lịch sử trong giai đoạn 1945 – 1946
1.1.1. Tình hình thế giới trong giai đoạn 1945 – 1946
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng
qn Liên Xơ truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước
ở Đơng Âu và tiến về phía Berlin (Đức). Ở Tây Âu, Anh – Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ
quân lên đất Pháp (02/1945) rồi tiến về phía Tây nước Đức. Nước Pháp được giải
phóng, chính phủ Đờ Gơn về Paris.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh đánh vào Miến Điện nay là Myanmar.
Quân Mỹ đổ bộ lên Philippin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị quân
Đồng minh khống chế, nên Nhật phải giữ con đường duy nhất từ Mãn Châu qua Đông
Dương xuống Đông Nam Á. Thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ráo riết
chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khơi phục lại quyền
thống trị của Pháp. “Cả hai quân thù Nhật – Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao
sống mày chết, quyết liệt cùng nhau”1.
Ngày 09/03/1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương.
Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng.
Như vậy, tình hình thế giới trong những năm 1945 – 1947 có nhiều diễn biến
phức tạp và có tác động sâu sắc đến tình hình ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình trong nước giai đoạn 1945 – 1946
Năm 1945 – Việt Nam độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước
“Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh sắp tranh được sự thắng lợi
cuối cùng, cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi.
Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”2.
1 Ngọn cờ giải phóng, Nxb Sự thật, Hà Nội 1955, tr46.
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 505-506
4
Chỉ thị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, đồng thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có
đủ điều kiện. Bản chỉ thị ngày 12/03/1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của
Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng
03/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và giành thắng
lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa.
Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn. Đời sống kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn sau chiến tranh.
Nạn đói làm cho hai triệu người chết, hoạt động kinh tế trì trệ, thương mại càng gặp
nhiều khó khăn. Hệ thống ngân hàng Đông Dương vẫn trong tay tư bản Pháp, trong khi
đó quan Tưởng cho lưu hành đồng tiền mất giá của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá
tiền quan kim và tiền Đông Dương, làm lũng đoạn thị trường miền Bắc, chính sách ngu
dân của thực dân Pháp làm cho dân ta chiếm 95% là mù chữ.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải – đó là cùng một lúc phải đối phó với
nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước ta. Ở phía Bắc,
gần 2000 quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật từ vĩ
tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc.
Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt Cách, Việt Quốc do chính quyền
Trưởng thu nạp và ni dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt Nam lúc này cũng có khoảng
26 nghìn quân Anh – Ấn vào giải giáp quân đội Nhật.
Tháng 10/1945 Anh đã kí với Pháp hiệp định chính thức Cơng nhận quyền
dân sự của Pháp tại Đơng Dương. Ngày 01/01/1946, Anh ký hiệp định trao quyền
cho Pháp giải giáp quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp nhân
nhượng cho anh một số quyền lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong khoảng thời
gian Nhật Bản chiếm đóng Đơng Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn lính gồm tù binh
đang bị Nhật giam giữ và tân binh nằm rải rác ở các miền phụ cận Đơng Dương. Sau
chiến tranh, 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo
5
chính ngày 09/03/1945 được thả và vũ trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp
được gấp rút đưa vào miền Nam. Ngày 23/09/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt
Nam lần 2. Ngồi ra, cịn khoảng 60 nghìn qn Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc
này. Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta (là Nhật, Anh, Pháp
và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc giải giáp cho Đông
Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền cách mạng, lập lại trật tự
của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn tổng thể về kinh tế, tài chính, quân sự, tương
quan lực lượng giữa ta và các thế lực thù địch từ bên ngồi vào có sự chênh lệch rất
lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “châu chấu đá xe”. Lúc này, chủ tịch Hồ Chí
Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cùng Thường vụ Trung ương Đảng đã sớm thấy
khả năng dùng ngoại giao như vũ khí sắc bén tham gia năng động vào quá trình tự
bảo vệ thành quả cách mạng, chia rẽ, cô lập kẻ thù. Ngoại giao Việt Nam từ những
ngày đầu đã chủ động phát huy thế tiến công chống lại âm mưu, cạm bẫy của kẻ thù,
thực thi những nhiệm vụ to lớn tưởng chừng như khó có thể thực hiện được.
1.2.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1946
1.2.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại
Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, Nhà nước ta đã
sớm ban hành chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa. Một
tháng sau khi tuyên bố nước Việt Nam giành được độc lập, ngày 03/10/1945, chính
sách ngoại giao của nước ta được cơng bố dưới dạng một văn kiện nhà nước: “Thông
cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hịa Dân chủ Việt Nam”, được đăng
trên báo Cứu quốc, ngày 03/10/1045. Mục tiêu của chính sách là: bảo vệ thành quả
của cuộc Cách mạng Tháng 8 mà trước hết là duy trì, củng cố chính quyền nhân dân
vừa thành lập trên cả nước. Tiếp đó, đưa đất nước Việt Nam đến độc lập hồn tồn
và vĩnh viễn; “Nước Việt Nam cịn đương ở giai đoạn đấu tranh kịch liệt, tất cả chính
sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh thắng lợi bằng
mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”. Đồng thời, chính sách ngoại giao của ta
cũng chỉ rõ ta sẽ cùng các nước trong Đồng minh xây đắp lại nền hịa bình thế giới.
6
1.2.2. Lựa chọn chính sách đối ngoại
Bản “Thơng cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hịa Dân chủ Việt
Nam” (03/10/1945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn, phù hợp với
từng đối tượng. Với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và
thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hịa bình thế
giới lâu dài.
Với Pháp, chính sách của ta là bảo vệ tính mạng và tài sản của dân Pháp đúng
theo luật quốc tế, miễn là họ yên ổn sinh sống và tôn trọng luật pháp, chủ quyền và
nền độc lập của Việt Nam. Ta mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở
tơn trọng quyền bình đẳng và các quyền của nhau đối với nước Pháp. Còn đối với
bọn thực dân Pháp có mưu đồ chống phá, xâm lược nước ta thì ta kiên quyết đấu
tranh. Với các nước láng giềng, đặc biệt đối với nhân dân Khơme, Lào, Việt Nam ta
đặt quan hệ dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết. Đã từng chịu ách đô hộ của Pháp,
nhân dân ba nước phải hợp sức lại để cởi bỏ ách đơ hộ đó, giúp đỡ lẫn nhau giành
được độc lập và duy trì nền độc lập của mình.
Hơn nữa, ba nước có quan hệ kinh tế chặt chẽ, sẽ giúp đỡ nhau trong công
cuộc kiến thiết, cùng nhau tiến lên trên con đường tiến bộ. “Với các tiểu dân tộc trên
tồn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt
chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp xây đắp và giữ
vững nền độc lập”.
Trong bối cảnh thế giới và trong nước diễn biến phức tạp. Cùng một lúc, ta
còn phải giải quyết mối quan hệ với nhiều lực lượng khác nữa. Do đó, ta cần có
chính sách linh hoạt, mềm dẻo, đề ra những nhiệm vụ ưu tiên. Kẻ thù chính lúc này
của ta là thực dân Pháp xâm lược. Ta cần tập trung lực lượng chống kẻ thù chính,
hịa hỗn các lực lượng chống đối khác để rảnh tay đánh Pháp. Đảng ta chủ trương:
“Phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm lược ra mà đánh, đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn
(lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân Anh) vào một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù
ngang nhau, đừng cơng kích nước Pháp, chỉ cơng kích bọn thực dân Pháp”. Trên cơ
sở này, thường vụ Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến
7
quyết định chiến lược “Hòa để tiến”. Bộ chỉ huy cách mạng lúc bấy giờ đã khái quát
đúng các khả năng khác nhau để giữ vững thành quả cách mạng mà không nhất thiết
phải đi theo con đường độc đạo. Ta không chủ chương “đánh đến cùng” bởi chủ
chương này sẽ làm cho ta bị cô lập và tiêu hao lực lượng. Ta sử dụng các biện pháp
“hòa để tiến”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, khéo léo, linh hoạt
biến các Hiệp định tay đôi (Anh – Pháp và Hoa – Pháp) liên quan đến quyền lợi của
nước ta thành thỏa thuận tay ba với sự tham gia của ta, đồng thời tạo thế hịa hỗn
với một bên để tranh thủ thời gian củng cố nội lực, tăng cường sức mạnh để đối phó
với những kẻ thù khác. Như vậy, ngoại giao của ta thời kì này là ngoại giao đa
phương, mềm dẻo, linh hoạt, khi nhượng bộ, khi cương quyết và luôn khẳng định
đường lối độc lập tự chủ của nước nhà.
1.3.
Triển khai chính sách đối ngoại
1.3.1. Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch
Chính quyền Tưởng từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về Đơng
Dương – đặc biệt là với Việt Nam, chúng âm mưu lật đổ Đảng Cộng Sản, phá tan
Việt Minh, đô hộ nước ta lần nữa. Tuy nhiên, Chính quyền Cách Mạng của ta nêu
cao khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện” và thực hiện hồ hỗn với các sách lược mềm
mỏng và bình tĩnh mà Hồ Chí Minh gọi là: “Chính sách Câu Tiễn”. Mục đích của
những chính sách này là lợi dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam như một
lực lượng đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế chủ trương của Chính
phủ Paris sớm khơi phục kiểm sốt ở Đơng Dương có thời gian ổn định tình hình
trong nước và rảnh tay đối phó với Pháp.
Trong các tuyên bố cơng khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt – Hoa,
cũng như các thư từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng Giới Thạch, ta ln
khẳng định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng thường có những cuộc thăm hỏi các tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam
như Lư Hán, Tiêu Văn... một mặt là để đặt quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là
để tìm hiểu các tướng lĩnh, lợi dụng mặt hám lời vật chất để hạn chế sự chống phá;
tìm hiểu những mâu thuẫn nội bộ của chúng và các mâu thuẫn với bên ngồi. Từ đó,
8
lợi dụng những mâu thuẫn để thực hiện những việc có ích cho ta. Ví dụ như việc
lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ tư tưởng Lư Hán của Tưởng – người thường có thái
độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Hồ Chủ tịch thường trao đổi với Lư Hán về
tình hình Việt Nam, giới thiệu chủ trương “Họa – Việt thân thiện”; phê phán những
hành động xâm lược của Pháp. Qua những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc
nhiên và khâm phục sự hiểu biết sâu rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư Hán có
những hành động độc lập với chính phủ Trung Quốc như: không công nhận A-lếchxăng-đri là đại diện cho Đờ Gôn miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp lập cơ
quan hành chính dân sự, khơng ủng hộ q mức bọn Việt quốc, Việt cách.
Thêm vào đó, Hồ Chủ tịch cịn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện pháp
chống đối Cách Mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh hưởng đến
cách thức hành động của chúng. Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực
lượng chính trị lớn mạnh của quần chúng nhân dân ủng hộ Cách mạng để hậu thuẫn
cho hoạt động ngoại giao. Điển hình là cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô
Hà Nội. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan nghênh Đồng Minh nhưng thực chất
là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng hộ chính quyền Cách Mạng và Hồ Chí
Minh.
Như vậy, nhờ những biện pháp, chính sách của chính phủ Việt Nam hồ hỗn,
kiềm chế lực lượng chống phá của Tưởng, miền Bắc nước ta có một thời kỳ tương
đối ổn định để thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc, xây dựng củng cố chính
quyền nhân dân; làm chậm trễ việc quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện
để chi viện cho kháng chiến ở đồng bào miền Nam.
1.3.2. Chính sách đối ngoại với Pháp
Sau chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Pháp lại mưu đồ xâm lược Việt Nam
một lần nữa. Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam trước, sau đó ý định
mở rộng chiến tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất bại trong kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh ở miền Nam, nên mặc dù đã thảo luận kế hoạch quân sự mở rộng
chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ huy quân Pháp thấy lo ngại. Kế hoạch của chúng khó
có thể thực hiện. Vì thực dân Pháp lúc này khơng những phải đối mặt với khối đại
9
đồn kết tồn dân tộc của ta mà cịn phải đối mặt với hơn 20 vạn quân Tưởng. Pháp
lo sợ sự “xích gần với chính quyền Hà Nội” của lực lượng Tưởng Giới Thạch ở
Đông Dương sau một số thoả thuận giữa ta với Tưởng. Trước tình hình đó, Pháp đưa
ra giải pháp: một mặt thương lượng với chính phủ Trùng Khánh để đạt được sự công
nhận của Tưởng về quyền của Pháp ở Đông Dương và cho quân Pháp thay thế quân
Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hồ để tránh chiến tranh lâu dài.
Chính sách của ta dân chuyển thành nhân nhượng, hồ hỗn với Pháp tuy
nhiên vẫn giữ nền độc lập chính trị. Mục tiêu của hồ hoãn với Pháp để đẩy Tưởng
về nước, biến hiệp định tay đôi thành thoả thuận tay ba. Thoả hiệp Việt – Pháp được
hoàn chỉnh từng bước qua các cuộc đấu tranh trong đàm phán giữa hai bên. Cuối
cùng, ngày 06/03/1946, hiệp định sơ bộ Việt – Pháp được ký kết với sự chứng kiến
của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực lượng của Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương.
Kết quả là tạm ước 14/09/1946 được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Bộ trưởng
Mu-tê đại diện của Chính phủ Pháp. Tạm ước đã ghi nhận tạm thời những cam kết
của Việt Nam và Pháp trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ, nhằm giải quyết những vấn đề
bức thiết trong mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải ngừng ngay mọi xung
đột. Phía Pháp sẽ đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ, thả những
người Việt Nam bị Pháp bắt và phía Việt Nam nhân nhượng cho Pháp một số quyền
lợi về kinh tế và văn hoá ở Việt Nam. Bọn thực dân Pháp phản động cùng địi chủ
tịch Hồ Chí Minh thoả thuận rút lực lượng vũ trang ở Nam Bộ ra miền Bắc nhưng
Người kiên quyết không chấp nhận. Như vậy, bằng việc nhân nhượng thêm cho Pháp
một số quyền lợi về kinh tế, văn hố và kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp
Pháp, ta được tiếp tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam
Bộ. Do đó, giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị lực lượng quân sự, kinh tế,... đối
phó với quân địch.
1.3.3. Chính sách đối ngoại với một số quốc gia khác
Như đã khẳng định trong Thông cáo 03/10/1945, với các nước lớn, các nước
trong Đồng Minh chống phát xít thì Việt Nam hết sức thân thiện và thành thật hợp
10
tác trên lập trường bình đẳng và tương ái. Mỹ là một nước lớn trong phe Đồng Minh
chống phát xít. Thái độ của Chính phủ Mỹ sẽ ảnh hưởng đến việc Pháp thiết lập chế
độ thuộc địa ở Đông Dương, ảnh hưởng tới sự bành trướng của quân đội Tưởng. Từ
tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thơng
điệp, thư điện và công làm cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu các phát
triển mới trong tình hình của Việt Nam; tố cáo Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và vi
phạm các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Liên
Hiệp Quốc; đề nghị Mỹ cơng nhận nền độc lập của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện Mỹ có
mặt ở Việt Nam, như Phái bộ Mỹ tại Đơng Dương, văn phịng của cơ quan Tình báo
chiến lược. Mục đích của ta là nhằm tranh thủ những người Mỹ có mặt ở Hà Nội để
hỗ trợ cho việc kiềm chế tướng lĩnh Tưởng và thế lực của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng có những cuộc tiếp xúc với quan chức ngoại giao của Mỹ. Tháng 9 năm
1946, khi ở Pháp, chủ tịch đến thăm Đại sứ quán Mỹ ở Paris, gặp Đại sứ Mỹ và sau
đó tiếp cán bộ Đại sứ quán Mỹ đến chào Người. Các giao dịch của những người
đứng đầu Việt Nam đã có những tác động ít nhiều tới thái độ của Mỹ trong vấn đề
Đông Dương. Tài liệu của Nhà Năm Góc đã nhận xét về vấn đề này: “Trong khi
khơng có hành động gì đáp ứng u cầu mà Hồ Chí Minh nêu lên, Mỹ cũng khơng
sẵn sàng giúp đỡ Pháp”. Như vậy chính sách ngoại giao của ta lúc này là ngoại giao
nhân dân, chủ động lập hội Việt – Mỹ thân hữu nhằm tranh thủ Mỹ trung lập, tạo
điều kiện để hồ hỗn, kiềm chế lực lượng của Tưởng cũng như Pháp ở Việt Nam.
Đối với các nước khác trên thế giới, Việt Nam chủ trương quan hệ hữu nghị, hợp tác,
bình đẳng, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Đối với nhân dân Pháp, Việt
Nam khơng thù hằn gì, vẫn ln tỏ thái độ thân thiện, tỏ ý muốn hợp tác. Ta chỉ
chống lại bọn thực dân Pháp phản động, có ý đồ muốn xâm lược nước ta.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN
1945 – 1946 ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY
11
2.1.
Tình hình biển Đơng hiện nay
Những năm gần đây, vấn đề tranh chấp biển Đông chưa ngừng giảm nhiệt,
ngày càng có những chuyển biến phức tạp mà chúng ta khơng thể lường trước được.
Lợi dụng tình thế này một số thế lực đã âm thầm chống phá Cách mạng Việt Nam,
bóp méo sự thật, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng làm cho lòng dân trở
nên hoang mang mà dần mất niềm tin. Trong đó, lợi dụng vấn đề Biển Đông trong
thời gian gần đây để tăng cường các hoạt động chống phá cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 là thủ đoạn
rất nguy hiểm và thâm độc.
Các thế lực thù địch lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội để tăng cường tốc độ
xuyên tạc, dựng chuyện, bịa đặt, tác động mạnh vào tâm lý, nhận thức của toàn dân và xã
hội. Trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng
sự thành công của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nhân dân trong và ngồi nước khơng
khỏi bức xúc khi trên mạng xã hội xuất hiện những thông tin xuyên tạc vấn đề chủ quyền
lãnh thổ của Việt Nam. Chỉ cần suy ngẫm, đối chiếu và nhìn nhận một cách có chọn lọc,
chúng ta dễ dàng có thể nhận ra đây là âm mưu của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội
chính trị, phản động đang ra sức lợi dụng vấn đề Biển Đông để chống phá Đảng, nhà
nước và nhân dân Việt Nam. Trên một vài trang mạng xã hội xuất hiện các diễn đàn tập
hợp nhiều phần tử bất mãn, cho rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc tổ chức
đại hội Đảng hơn vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo”; hoặc cố tình xuyên tạc đường lối,
chủ trương, quan điểm đấu tranh giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thông qua
những “thuyết âm mưu” nhuốm màu kích động như: “Việt Nam lơi bè kéo cánh, đi với
nước này, chống nước kia; và rằng, không đánh nhau thì mất biển, mất đảo...”.
Chúng quy chụp lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta “phản ứng chậm” hoặc “né
tránh, không dám đối đầu, đang tâm để chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị đe dọa”. Mưu đồ
của những luận điệu này là khiến nhân dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước đối với bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở nước ta. Càng nguy hiểm
hơn chúng còn lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để
kích động, kêu gọi người dân “xuống đường biểu tình” thể hiện lịng u nước như năm
12
2015 ở Hà Nội và Bình Dương. Từ đó, gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp
tục chống phá.
Thời gian gần đây tình hình Biển Đơng ngày càng có những diễn biến hết sức
phức tạp vì những hành động ngày càng leo thang và ngang ngược từ phía Trung Quốc.
Vấn đề Biển Đơng càng căng thẳng hơn sau sự kiện tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp
tàu thăm dị dầu khí Bình Minh và tàu Viking II của Tập đồn dầu khí Việt Nam; việc
Trung Quốc đơn phương tuyên bố thiết lập Bộ chỉ huy quân sự và Hội đồng đại biểu
nhân dân “thành phố Tam Sa” trên đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa; đưa 23
ngàn tàu đánh cá với gần 100 ngàn ngư dân rầm rộ đến đánh bắt hải sản tại vùng biển
quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đặc biệt trong tháng 11/2012 Trung
Quốc đã cấp hộ chiếu phổ thông điện tử cho công dân của nước này, trong đó có in
hình bản đồ Trung Quốc bao gồm đường đứt đoạn (hộ chiếu “đường lưỡi bò”)… ngày
30/11/2012, trong khi tàu Bình Minh 02 của Việt Nam đang tiến hành thăm dị địa chấn
bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế thì bị 2 tàu cá Trung Quốc mang số hiệu
16025 và 16028 cố tình cản trở và gây đứt cáp, bất chấp các lực lượng chức năng của
Việt Nam đã phát tín hiệu cảnh báo; hay gần đây là việc cơng bố chính thức nội dung
và đưa vào hiệu lực “Điều lệ quản lý trị an biên phịng ven biển Hải Nam” trong đó
đưa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam vào phạm vi
áp dụng; tổ chức tập trận tại đảo Quang Hịa thuộc quần đảo Hồng Sa, tổ chức khai
thông và cung cấp dịch vụ 3G, CDMA tại đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa,
phê duyệt “Quy hoạch phát triển du lịch tàu khách thành phố Tam Á 2012-2022” trong
đó có tuyến đi tới các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
2.2. Vận dụng đường lối đối ngoại của Đảng ta trong giai đoạn 1945 – 1946 và
vấn đề giải quyết biển Đông hiện nay.
Thứ nhất, Đường lối, chủ trương chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đơng
của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và
trong nước. Trên ngun tắc hịa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế lớn, cạnh
tranh giữa các nước lớn, xung đột, tranh chấp chủ quyền biển, đảo xảy ra ở nhiều nơi,
trong đó có khu vực Biển Đơng. Những điểm bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc đều
13
có xu hướng giải quyết trên nền tảng hịa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp
chung và trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế. Giải quyết mâu
thuẫn thơng qua thương lượng hịa bình trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn
vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm
1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đơng (DOC),
nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các
bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hịa bình, hợp tác và phát triển. Chủ
trương này vừa đảm bảo sự linh hoạt, sự mềm dẻo vừa giữ vững nguyên tắc không thể
bác bỏ – chủ quyền quốc gia. Nhân dân Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử
dựng nước và kiên cường đấu tranh bảo vệ tổ quốc trước sự xâm lược của các thế lực
ngoại bang phương bắc và gần đây là hai thực dân, đế quốc: Pháp, Mỹ. Bao lớp cha
ông đã không quản ngại gian khổ hy sinh, cả nước dồn sức người sức của cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng
của tổ quốc với bao nhiêu chiến thắng vang dội nghi trong sử sách khiến kẻ thù kinh
hồn, bạt vía. Chúng ta được quyền tự hào về một dân tộc Việt Nam anh hùng, giàu lịng
u nước, khơng khuất phục trước kẻ thù xâm lược hùng mạnh hơn gấp nhiều lần. Dân
tộc ta là một dân tộc anh dũng, trải qua hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc đô hộ,
chiến đấu trên mọi mặt trận. Nhờ sự ủng hộ đồng tình của bạn bè thế giới, Đảng và nhà
nước ta lên tiếng phản đối Trung Quốc, yêu cầu tơn trọng chủ quyền, tồn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Đồng thời duy trì biện pháp hịa bình khơng xảy ra xung đột vũ trang.
Thơng qua đó, Đảng và nhà nước ln đảm bảo và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc,
quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và tuyên truyền, ổn định tinh thần và tư tưởng
tồn dân. Chính sách này hồn tồn đúng đắn và phù hợp với xu hướng hiện tại.
Thứ hai, Đảng và nhà nước ta kiên quyết thực hiện chính sách “bốn không”
trong giải quyết tranh chấp trên biển Đông. Tức là không tham gia lực lượng; không
liên minh quân sự của bên này chống bên kia; khơng cho nước ngồi đặt căn cứ quân
sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử
14
dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế 3. Mặc dù chịu sự cơng kích của các thế lực thù địch
yêu cầu Đảng ta phải thay đổi chính sách này nhưng với quan điểm là một nước luôn tự
cường, tự chủ, độc lập Đảng ta ln nhất qn với chính sách này đã được quy định
trong hiến chương Liên hiệp quốc. Đây là cơ sở để xác định đối tượng và đối tác, có
hợp tác và có đấu tranh; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình
trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp
với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. Điều đó càng thể hiện quan điểm Việt Nam đối với các
nước là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế
nói chung, trong giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đơng nói
riêng. Trong xu thế hợp tác và phát triển của thế giới, Việt Nam ngày càng mở rộng
quan hệ, tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, song tuyệt nhiên
khơng có tư tưởng và hành động dựa dẫm, ỷ lại hoặc “lôi bè kéo cánh” để giải quyết
bất đồng về chủ quyền lãnh thổ4. Chính sách khơng tham gia liên minh quân sự, không
liên kết với nước này để chống nước kia; khơng cho nước ngồi đặt căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, là những quan điểm,
chính sách nhất quán, đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Bởi vậy, cái gọi là Việt Nam đi
với nước này chống lại nước kia là luận điệu xun tạc, tuyệt nhiên khơng có trong
đường lối đối ngoại, hoặc trong chủ trương giải quyết vấn đề Biển Đông mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã xác định. Giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển
đất nước. Giữ vững mối đoàn kết với tất cả các nước. Không được để xảy ra xung đột;
3Xuân Thu (2/12/2019), Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề Biển Đông hiện nay,
< [Truy cập ngày 26/11/2021]
4 Vũ Hùng (03/05/2021),
Giải quyết vấn đề Biển Đông – I rất cần cái nhìn khách quan, tỉnh táo ,
< [Truy cập ngày 27/11/2021]
15
không để lệ thuộc về kinh tế; không để bị cơ lập về chính trị; khơng để bị lơi kéo đi
theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về quân sự. Ngoài ra, Việt
Nam chủ trương đấu tranh bằng phương pháp hồ bình theo từng cấp độ, theo diễn
biến của tình hình và trên cơ sở phương châm 16 chữ (láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và 4 tốt (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt) trong quan hệ với Trung Quốc. Mặt khác, Việt Nam ln tích cực
đấu tranh cả trên thực địa và ngoại giao. Khi cần thiết, chuẩn bị đầy đủ các yếu tố ta sẽ
kiện, mà đã kiện là phải thắng.
Thứ ba, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh để bảo vệ độc
lập toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia. Tuy nhiên liên quan tới vấn đề giải
quyết tranh chấp biển Đông thời gian qua cũng có một số ý kiến cho rằng “Đảng, Nhà
nước ta nhu nhược”, tại sao không dám “đánh” Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển
đảo? Hãy thử hỏi và tự mình trả lời liệu chúng ta được gì và mất gì khi xung đột vũ
trang xảy ra? Liệu Việt Nam có thể giành được chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa bằng phương cách đó? (nói như vậy khơng có nghĩa là dân tộc ta nhu
nhược, đó là phương cách cuối cùng khi đối phương đẩy chúng ta vào hoàn cảnh buộc
phải tự vệ chính đáng trong tình hình hiện nay). Đó là những luận điệu xun tạc sự thật,
cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng ta vào cuộc đối đầu
quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường. Thực tế đã cho chúng ta thấy trong suốt thời
gian Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo nước ta, các lực lượng Hải quân, Cảnh sát
biển, biên phòng đã phối hợp với ngư dân trên biển ra sức thực hiện các hoạt động kiên
quyết, đấu tranh giữ vững tinh thần chiến đấu của dân tộc 24/24.
Trước những diễn biến khơng thể lường trước tình hình thế giới, khu vực và trên
Biển Đơng, tồn Đảng u cầu tồn dân, tồn qn ln nâng cao cảnh giác, chủ động
nắm chắc, dự báo chính xác mọi trạng thái, ngăn ngừa rủi ro từ sớm, từ xa, quyết định
không để mất dù là một bãi biển, một đảo. Các hoạt động định lượng trên biển, nòng
cốt là Hải quân thường xuyên xây dựng các tổ chức, tổ chức chỉ huy, lấy nhân tố là
người quyết định, vũ khí trang bị quan trọng; đồng thời duy trì sẵn sàng chiến đấu, nắm
chắc tình hình trên các vùng biển, nhất là vùng biển trọng điểm, điểm nhạy cảm, không
16
hoạt động, bất ngờ. Tăng cường huấn luyện làm chủ và phát huy hiệu quả trang bị,
nâng cao khả năng kiểm tra, kiểm soát, quyền bảo vệ chủ, an ninh, tự động, an tồn
hoạt động kinh tế biển. Khi có tình yêu, cần tham gia, đề xuất với Đảng, Nhà nước,
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phương châm, đối sách, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo; phát huy sức mạnh tổng hợp; kết hợp giữa đấu tranh trên thực địa với đấu
tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý; tổ chức, chỉ huy, phối hợp chặt chẽ các lực
lượng; an ninh, khôn ngoan bảo vệ vững chắc các quyền, giữ bình hịa mơi trường, ổn
định trên biển.
17
KẾT LUẬN
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo chiến lược: “Biển Đông vạn dặm
giăng tay giữ, Đất Việt muôn năm vững trị bình”. Năm 1961, Bác Hồ kính u cũng
căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ
biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Những lời dạy đó ln nhắc nhở
chúng ta hơm nay phải luôn ghi nhớ, trong khi đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, không
được một giây phút lơ là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ
quốc. Kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của
biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo. Quản lý, khai thác đi đôi với bảo vệ vững
chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, làm cho đất nước
giàu mạnh là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Hơn bất kỳ một dân tộc nào, dân tộc ta thấu hiểu được sự mất mát đau thương
của chiến tranh gây ra. Trong thời đại hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra sẽ là gây ra rất
nhiều thiệt hại vô cùng lớn cả về con người và cơ sở vật chất, cả về kinh tế, chính trị,
văn hố xã hội, ngoại giao; đặc biệt là khơng cịn mơi trường hồ bình, ổn định để phát
triển đất nước...Thực tế lịch sử đã chứng minh, đất nước Việt Nam có Ðảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, có nhân dân anh hùng, có quân đội anh hùng. Việt Nam đã có Ðiện
Biên Phủ trên bộ, Ðiện Biên Phủ trên khơng, nếu tình huống xấu nhất xảy ra, chắc chắn
chúng ta sẽ có Ðiện Biên Phủ trên biển.
Một lần nữa chúng ta không thể phủ nhận rằng chính sách ngoại giao những
năm 1945 – 1946 đã để lại những bài học vô cùng quý giá cho thế hiện hiện nay. Trong
điều kiện thế giới và các khu vực lân cận ln có những âm mưu diễn biến phức tạp,
đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải nâng cao việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn
quốc gia. Do đó, cần phải vận dụng linh hoạt, hiệu quả những bài học kinh nghiệm trên
vào nước ta hiện nay là vấn đề thiết yếu, hết sức quan trọng, góp phần giúp Việt Nam
đứng vững trên thị trường thế giới.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2017), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2009), Giáo trình cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Ngoại giao (2020), Bộ ngoại giao Việt Nam 1945 – 2010 , Nxb Chính trị quốc
gia sự thật.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 505-506.
5. Ngọn cờ giải phóng, Nxb Sự thật, Hà Nội 1955, tr46.
6. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, Cách mạng tháng Tám củng cố và xây dựng
chính quyền 1945 – 1946, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
7. Xuân Thu (2/12/2019), Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề Biển Đông
hiện nay, [Truy cập ngày 26/11/2021].
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr.146.
9. Vũ Hùng (03/05/2021), Giải quyết vấn đề Biển Đông – rất cần cái nhìn khách
quan, tỉnh táo, [Truy cập ngày
27/11/2021].
10. Huyền Chi ( 17/11/2020), Giải quyết các tranh chấp Biển Đông bằng chuẩn mực
quốc tế, [ Truy cập ngày 27/11/2021 ].
19